Chủ Nhật, 6 tháng 11, 2016

Tuần mới cho Usd/yên như thế nào?


Chúng ta hảy xem đồng USD/JPY như thế nào nhé trong tuần mới tháng 11 này( 07/11>13/11/2016)
    Trong H4 chúng ta sẽ có một cái nhìn tổng thể về thị trường chung , H4 là đại diện hợp pháp nhất cho tính tuần, chu kì tuần, tháng , trong biểu đồ này khi giá kết thúc tuần thứ nhất trong tháng 11,vào thứ 6 thì mức giá cơ bản vẫn lình xình trong trend xanh dưới- nghĩa là giá không cho một dấu hiệu đột biến thật sự để bức phá trend này,,,điều này nói lên gì///? một sự chấm dứt kì vọng cho sự sự áp đảo của Bearishs chăng- điều đó rõ ràng như sáng ban ngày vậy. Như vậy một dấu hiệu xuống sức , hoặc nhã giá của bearishs đã hết sức rõ ràng , trong việc điều chỉnh về , hoặc thậm chí phất cờ cho sự nhẫn nại của bullishs là thực sự có ý nghĩa lúc này. NÓI cách khác nếu tôi  canh mua lúc này là hoàn toàn hợp lí cho tuần mới, giá sẽ chớm có dấu hiệu đội nón đi lên-mang cánh chim xanh ngỏ lời yêu thương trong gió cho phái đoàn bullish ! Hãy mua ngay và đừng trả giá lúc này-một toploss 100p( chỉ khi có dấu hiệu vở trend xanh dưới)  và 1 tp 200 là hợp lí)
  Chúc trader thắng lợi trong tuần tới!

aud/usd đầu tuần nói gì?


Một tuần mới cho đồng AUD/USD( ngày 07/11> 13/11/2016)
 Trong biểu đồ tuần trên H4 chúng ta gần như đã thấy được sự yếu sức của thị trường, một dấu hiệu chớm mệt mỏi của phe bullish , Điều đó được thể hiện qua việc giá thoát khỏi trend đỏ ( trong h1 chúng ta sẽ nhìn rỏ hơn ). Một mô hình đầu và hai vai dương như đang được thịnh hành, để chờ đợi cho một dấu hiệu bearish thực sự,  Tôi tin hảy đóng vai con gấu lúc này ,chúng ta sẽ có những cú hích mạnh của thị trường ở đầu tuần sẽ tốt hơn, cho nên một sự cạnh bán luôn được kì vọng trên hết, sẽ có những cú bổ nhào thực sự khi giá không thể vượt qua trend vàng như trên ,một sự bán xuống luôn được kì vọng và một toplos trên đó một khoảng an toàn 100pip. và 1 đà tp 200 pip
  Chúc nhà đầu tư một tuần thắng lợi vang dội!

Thứ Hai, 24 tháng 10, 2016

Phân tích đồng aud/usd


Một xu Thế khơi mào bearish cho 2 tuần cuối trong tháng 10 này , trong H1 chúng ta nhìn thấy trend đang rớt dốc thê thảm, giá sẽ chớm đạt các mục tiêu pipo 23.6 (075650) và hạ chóp nút pipo 0.0 (  Về đáy tuân qua) . Nếu ai xác định là lính bắn tỉa thì không có cớ gì cho sự vội vàng và nóng nảy , chúng ta cùng vào lệnh ở các mục tiêu được thẩm định trước , cho 1 sự hồi về có kì vọng , vậy nếu mua trong 1 xu hướng đang rớt mạnh mà tôi tin nó sẽ diễn ra trong tuần cuối tháng 10
 Thì hảy bắt đầu ở trend vàng khi giá chạm trend vàng , và toplos=30pip.

Thứ Bảy, 17 tháng 9, 2016

18 chi Hùng Vương

Bài thơ ngoại cảm sau đây cho biết: có 18 chi vua Hùng chứ không phải 18 “đời” Vua như lịch sử Việt đã ghi. Mỗi chi Hùng Vương gồm nhiều đời con, cháu... kế ngôi, lấy tên hiệu và tên huý của đời Vua đầu chi chung cho các Vua tiếp theo trong chi đó. Triều đại Hùng Vương kéo dài 2621 năm (từ năm 2879 TCN đến 258 TCN), gồm khoảng 100 đời Vua.



Về 18 chi Hùng Vương 
Ôn lại cổ đại xa vời,
Hàng vạn năm trước đất trời thế gian
Lục địa, cây cối bạt ngàn
Sông hồ, rừng núi như đan địa cầu.
Nơi thấp là biển nước sâu,
Mênh mông nào biết nơi đâu bến bờ.
Nhiều loài động vật cổ sơ,
Trên đất dưới nước, nhỏ to nhiều loài.
Thế gian trong chuỗi ngày dài,
Thiên nhiên, cảnh vật nguyên khai cõi Trần.
Thời gian biết mấy triệu xuân,
Không đường, không ruộng, không dân, không nhà.
Đại dương, lục địa bao la
Nhiều loài động vật cũng hòa thiên nhiên.
Ngày đêm nối tiếp triền miên,
Âm u, hoang vắng khắp miền Trần gian.
Cầm thú các loài vô vàn,
Có loài động vật khôn ngoan từng bầy.
Kiếm ăn nhờ có đôi tay
Hái nhặt rau bẹ, trái cây lần hồi.
Ngót sáu ngàn tiết đông trôi,
Đã biết dùng lửa đốt thui, nướng lùi.
Không phải ăn sống nuốt tươi,
Hơn loài thú vật khắp nơi phàm trần.
Trí khôn được mở rộng dần,
Nhưng nam nữ vẫn hôn quần, loạn luân.
1. Đức Kinh Dương Vương hiện thân
Qua năm ngàn tiết mùa xuân trước ngày.
Người đã tập hợp các bầy
Đều là nòi Việt từ đây hợp thành.
Văn Lang, bộ lạc tạo hình
Mở đường dẫn tới khai sinh loài người.
Một xã hội mới ra đời,
Gồm nhiều dòng tộc khắp nơi hợp thành.
Đều là nòi Việt đồng sinh,
Dòng tộc theo mẹ, hiện tình nguyên sơ.
Từng bầy, mẫu chủ bấy giờ
Chính là dòng tộc cổ sơ lưu truyền.
Quần hôn, vô phụ đương nhiên
Mẫu sinh, mẫu dưỡng, mẫu quyền, hỗn mang.
Tục truyền từ thủa Hồng Bàng
Sinh ra trăm họ khắp giang sơn này.
Hồng Bàng  thực nghĩa bấy nay
Da vàng máu đỏ, nhiều bầy dã hoang.
Hồng Bàng rõ nghĩa “đỏ-vàng”
Nhiều dòng, nên gọi Hồng Bàng chung danh.
Văn Lang  công xã hình thành
Hai ngàn tám trăm bảy chín, rõ rành nguyên khai
Trước Công nguyên đó, chẳng sai.
Lộc Tục, tên húy của Ngài còn lưu
Tám sáu năm được dân theo,
Có nhiều dòng tộc sớm chiều đồng sinh.
Buổi đầu bộ lạc hình thành,
Thiên Sứ ─ Người đã giáng sinh cõi Trần.
2. Lạc Long - Sùng Lãm, Thiên nhân
Di Lặc - Phật Tổ, hiện thân chính Người.
Cõi Trần mù mịt khắp nơi,
Đường Trần tăm tối, ai người sáng soi?
Thời gian, năm tháng qua trôi
Trần gian ví tựa biển khơi đêm dài.
Lạc Long, Di Lặc chẳng sai
Ra tay tế độ mở khai cõi đời.
Đã đem đạo lý làm người
Truyền dạy cho cả giống nòi từ đây.
Đức nhân, lễ nghĩa dựng xây
Làm cho xã hội đổi thay khác thường.
Người như vầng Nhật Thái Dương,
Hào quang tỏa sáng muôn phương đất trời.
Người dạy sống ở trên đời
Thực thà, lương thiện là nơi an lành.
Thiện tâm  bản tính Trời sinh
Đó là chí cốt tâm linh con người.
Bính Thìn, năm đó ra đời
Di Lặc, Phật Tổ giáng nơi cõi Trần.
Chính là Đức Lạc Long Quân.
Tháng ba mười tám ngày xuân thanh bình,
Là ngày Phật Tổ giáng sinh,
Đưa bầy “hoang vượn” trở thành người nay.
Tính đến năm hai ngàn này:
Bốn ngàn tám trăm bảy chín vòng quay đất trời.
Văn Lang - Bách Việt đón Người
Ba mươi ba tuổi lên ngôi trị vì.
Thủ lĩnh bộ lạc tôn suy,
Hùng Hiền Vương hiệu còn ghi Sử Vàng.
Hiền Vương nhân đức chói chang,
Dẫn dắt bộ lạc Văn Lang thời Hùng.
Dạy dân lễ - nghĩa - hiếu - trung,
Quan hệ nam nữ  vợ chồng kết đôi.
Cùng nhau chung thuỷ suốt đời,
Sinh con cũng phải dưỡng nuôi thành người.
Thay đổi tập quán đương thời,
Dân dã chưa rõ ngược xuôi, dữ lành.
Người cùng Mẫu Mẹ Đức Sinh
Âu Cơ Tiên Nữ đẹp tình phu thê.
Rồng - Tiên hội ngộ duyên xe,
Trăm năm vững một lời thề thuỷ chung.
Sáng gương tình nghĩa vợ chồng,
Toàn dân Bách Việt dốc lòng noi theo.
Tiếng chuông đạo lý vang reo,
Xoá được hỗn tính, bỏ điều quần hôn.
Từ đây cuộc sống sinh tồn
Ánh sáng đạo lý khai môn loài người.
Văn Lang khắp chốn khắp nơi,
Nam nữ cùng lứa kết đôi vợ chồng.
Cùng nhau chung sức chung lòng,
Dưỡng nuôi, giáo dục con chung gia đình.
Tiếng “cha” từ đó phát sinh,
Ngôn từ “chồng-vợ” nghĩa tình sắt son.
Từ đó mới có “cha-con”,
Người Cha trước nhất mãi còn lưu danh.
Tên Người sáng chói sử xanh,
Lạc Long Tổ Phụ tạo sinh giống nòi.
Người dạy: Sống ở trên đời
Tu tâm, dưỡng tính thành người lương dân.
Sống phải có đức có nhân,
Hiếu trung, hiếu thảo, chuyên cần mới nên.
Cùng dòng máu Việt chớ quên,
Đồng lòng, chung sức vững bền muôn thu.
Chữ ‘đồng” sức mạnh có dư,
Đem thắng lợi đến ngọn cờ thành công.
Tình thương con cháu Lạc Hồng,
Đó là cốt huyết con chung một nhà.
Tình thương nòi giống chan hoà,
Đồng bào dân tộc thiết tha ân tình.
Trước không, giờ có gia đình
Tế bào xã hội thành hình từ đây.
Hiếu - trung - lễ - nghĩa cao dầy,
Công ơn Cha Mẹ cao tày Thái Sơn.
Cháu con phải biết nhớ ơn,
Thờ Cha kính Mẹ cho tròn đạo con.
Tổ Tiên vắng bóng khuất non,
Khói hương tưởng niệm mãi còn đời sau.
Phong tục thờ cúng khởi đầu,
Trở thành tập quán thắm mầu Rồng - Tiên.
Thuần phong mỹ tục lưu truyền
Từ thời Cha Lạc, Mẹ Hiền Âu Cơ.
Cuộc sống thủa ấy nguyên sơ,
Nay đây mai đó, trông nhờ thiên nhiên.
Định cư, tự sản  Người khuyên,
Trồng cây lấy quả khắp miền Văn Lang.
Từ đó có xóm có làng,
Trồng ngô, khoai, sắn, lúa vàng, nông gia.
Tạo sức sống mới đại đa,
Tự túc lương thực  mọi nhà đều theo.
Thôn trang vẻ đẹp yêu kiều,
Gia đình đoàn tụ sớm chiều bên nhau.
Trong cảnh hoang dã bấy lâu
Văn Lang nay khởi sắc mầu xuân tươi.
Cha dạy bộ lạc, mọi người
Đốt nung quặng đá để khơi lấy đồng.
Rèn đúc công cụ nghề nông,
Búa, dao, rìu, cuốc, thau đồng từ đây.
Thay công cụ đá trước ngày,
Làm ra lương thực đủ đầy hơn xưa.
Người cùng dân chúng sớm trưa
Cùng làm cùng hưởng, cùng đùa cùng vui.
Thôn trang, làng xóm khắp nơi
Ngân vang giọng hát, tiếng cười lời ru.
Mừng sao thoát cảnh âm u,
Tháng năm đen tối, mịt mù đã qua.
Cuộc đời nay đã nở hoa,
Con người tiến vọt, vượt xa muôn loài.
Con người đủ trí, đức, tài
Thông minh, sáng tạo từ khai nguyên này.
Ơn Cha tài trí, đức dầy
Lạc Long Tổ Phụ  Người Thầy thế gian.
Tạo dựng xã hội thịnh an,
Công minh, bình đẳng, quân san điều hoà.
Cộng sản nguyên thuỷ chính là
Chủ nghĩa xã hội khai hoa cõi Trần.
Công bằng thoả nguyện muôn dân,
Dân sinh, dân chủ trăm phần đẹp tươi.
Theo Luật Tạo Hoá vận Trời,
Thuận Thiên hợp với lòng người là đây.
Dầy công, Cha Mẹ dựng xây
Kỷ cương, đạo lý, đủ đầy đức ân.
Buổi đầu lập thế, tạo nhân
Chính thể tiên tiến, vì dân đương thời.
Xã hội tiến bộ trên đời,
Đẩy mạnh sản xuất của người nguyên khai.
Chính thể tồn tại lâu dài,
Ngót ba ngàn tuổi, chẳng sai, thời Hùng.
Hai ngàn sáu trăm hai mốt năm ròng,
Di Lặc Phật Tổ - Lạc Long xây nền
Công bằng xã hội vững bền,
Lâu nhất thế giới, đẹp Thiên Sử Vàng.
Đó chính là thủa Hồng Bàng,
Là người Bách Việt da vàng, máu son.
Muôn đời hậu thế cháu con,
Luôn nhớ Gốc Tổ mãi còn là đây.
Chớ đừng lầm tưởng trước ngày,
Hồng Bàng thị tộc dựng xây sơn hà.
Hồng Bàng đúng nghĩa chính là:
Nhiều dòng đồng chủng, máu da đồng màu.
Các dòng tộc Việt cùng nhau
Hợp thành bộ lạc buổi đầu, chẳng sai.
Đức Kinh Dương Vương nguyên khai,
Tám sáu năm đã hợp loài “vượn hoang”.
Lạc Long Di Lặc chuyển sang
Thực sự Cha đã khai quang cõi Trần.
Dẫn đường, giáo huấn muôn dân
Chuyển từ kiếp “vật” thành thân con người.
Văn Lang - Bách Việt ra đời,
Xã hội nguyên thuỷ từ thời hoang sơ.
Lạc Long  Cha dựng cơ đồ,
Khai sinh nòi Việt nên thơ muôn đời.
Cháu con Hồng Lạc mọi người
Tổ Tông dựng nước, con thời ghi sâu.
Đền Hùng đất Tổ Phong Châu,
Thuộc tỉnh Phú Thọ  nhịp cầu cổ kim.
Dấu tích khai quốc còn in,
Tổ Tông như vẫn dõi nhìn hôm nay.
Núi Hùng. đền Hạ nơi đây
Âu Cơ Đức Mẹ sinh bầy trăm con.
Một con kế giữ ngôi son,
Số nửa theo Mẹ lên non hành trình.
Đảm bảo cho sự tồn sinh,
Địa bàn sản xuất thành hình là đây.
Một nửa còn lại đó ngày,
Miền xuôi, định hướng dựng xây sơn hà.
Cùng nhau lập nghiệp theo Cha,
Từ đó ta có quốc gia sinh tồn.
Ứng với Bách Việt giang sơn,
Rồng Tiên cất cánh bay vờn trời xanh.
Núi thiêng Nghĩa Lĩnh thiên thành,
Voi quỳ, hổ phục vây quanh núi Hùng.
Lên cao hơn nữa  đền Trung
Nơi đây Thủ lĩnh Lạc Long hội bàn.
Cùng người giúp việc trị an,
Dân sự, phòng vệ lo toan cộng đồng.
Quản lý bộ lạc thời Hùng,
Giúp việc dân sự  tước phong Lạc hầu.
Bảo vệ bờ cõi, đứng đầu 
Tước phong Lạc tướng trong khâu chính quyền.
Đầu lĩnh cùng các quan viên
Dốc lòng lo việc dân yên cộng đồng.
Lo việc sản xuất, gieo trồng
Phân phối hợp lý, yên lòng muôn dân.
Trẻ già, trai gái có phần
Nhiều no, ít đủ, quân phân hợp thời.
Dân cùng Thủ lĩnh, mọi người
Cùng nhau lao động, vui chơi cùng hoà.
Bốn phương như thể một nhà,
Người trong bộ lạc đều là anh em.
Gần xa, đây đó, lạ quen
Giầu lòng hữu ái tự nguyên khai này.
Khởi nguồn văn hiến từ đây,
Con người ý thức đủ đầy nghĩa nhân.
Lạc Long  Thủ lĩnh minh quân,
Danh Thiên  Di Lặc, hiện thân chính Người.
Ra tay tế độ xây đời,
Khai sinh Bách Việt, đất trời Văn Lang.
Nguyên khai thủa đó Hồng Bàng,
Người thực là Đấng khai quang cõi Trần.
Cứu tinh trăm họ, muôn dân
Thoát khỏi kiếp vật, thành nhân Lạc Hồng.
Đền Hùng  Nguồn Cội Tổ Tông,
Lạc Long, Tổ Phụ đức công cao dầy.
Đỉnh cao, đền Thượng nơi đây
Thủ lĩnh, Người đã cho xây bệ thờ.
Rằm Giêng, đúng tháng tròn giờ
Người cầu Ngọc Đế độ cho dân lành.
Mùa màng, cây quả tốt xanh
Bình an trăm họ, tâm thành cầu Thiên.
Thủ Lĩnh bộ lạc  Hùng Hiền
Tiến hành nghi lễ cầu Thiên đó ngày.
Hiền Vương công lớn đức dầy,
Hai trăm sáu chín năm chày tại ngôi.
Thủ lĩnh khoảng độ mười đời,
Ngôi Chủ truyền tiếp đến thời chi ba.
3. Hùng Lân, Thủ lĩnh chính là
Năm mười tám tuổi, Người đà lên ngôi.
Hiệu Hùng Quốc Vương đó thời,
Hai trăm bảy mốt năm trời chuyển chi.
Kinh đô đóng tại Việt Trì,
Dư mười đời Chủ trị vì Văn Lang.
Chi Hùng thứ tư chuyển sang,
4. Hùng Hoa Vương hiệu, tiếp trang sử tiền.
Bửu Long tên huý, giữ quyền
Ba trăm bốn hai năm liền dài lâu.
Hơn mười đời Chủ truyền nhau,
Chi năm lại kế tiếp sau Hoa Hùng.
5. Bửu Lang tên huý nối dòng,
Hùng Hy Vương hiệu, Lang Công đó ngày.
Trăm chín mươi chín năm dài,
Ngót mười đời Chủ nguyên khai bấy giờ.
Chuyển sang chi sáu giữ cờ,
6. Long Tiên Lang huý kế thừa vẻ vang.
Hùng Hồn Vương, Chủ Văn Lang
Bên kia Bắc quốc, Thành Thang trị vì.
Tung tin tuần thú biên thùy,
Tràn sang xâm chiếm thực thi bá quyền.
Hùng Hồn Vương ban cáo tuyên,
Cho người đi khắp các miền thôn quê.
Tìm người trí, dũng mọi bề
Cầm quân diệt giặc, trở về tước phong.
Tới làng Phù Đổng, báo thông
Vang như sấm, tiếng nhi đồng vọng ra:
Nhờ người tâu với Vua Cha,
Cho ngựa, roi sắt cùng là thịt, xôi.
Đúng ngày tháng đó, Gióng tôi
Nhận đủ binh mã, ra nơi chiến trường.
Xin thề quét sạch giặc Thương,
Diệt lũ Bắc tặc bạo cường bấy lâu.
Binh mã đã đạt yêu cầu,
Vua giao Cậu Gióng đứng đầu cầm binh.
Người nhằm hướng giặc xuất chinh,
Chiến trường chính  núi Vệ Linh bấy giờ.
Mãnh xung, Cậu Gióng thét to
Tiếng như sấm động, giặc thù khiếp kinh.
Lại bị đánh bất thình lình,
Ta khí giới sắt, giặc binh khí đồng.
Đó là lợi thế tiến công,
Tướng binh ta dốc một lòng diệt Thương.
Quân ta xung trận kiên cường,
Những tên sống sót, Bắc phương  chạy về.
Quất giặc, roi sắt gãy lìa
Sức Thần, Cậu Gióng nhổ tre quật thù.
Nhật thời mười tám bấy giờ,
Ba mươi sáu tiếng đồng hồ ngày nay.
Diệt Thương - Ân tặc là đây,
Khắp trong bộ lạc vui thay dân tình.
Thánh Gióng cho ngựa tiến nhanh,
Lên đỉnh núi Sóc ngắm quanh bốn bề.
Bỗng cơn Thần lốc đón đi,
Cả người lẫn ngựa đưa về trên Thiên.
Vua Hùng được cấp báo tin,
Miếu thờ cho dựng đỉnh trên núi Hùng.
Trong lễ truy điệu sắc phong,
Thiên Vương Phù Đổng lưu trong Sử Vàng.
Hồn Vương lịch sử vẻ vang,
Tám mươi năm đã rõ ràng tại ngôi.
Thủ lĩnh truyền kế hai đời,
Ngôi Chủ lại chuyển tiếp đời Hùng sau.
7. Là chi thứ bảy nối cầu,
Hùng Chiêu Vương tiếp đứng đầu Văn Lang.
Quốc Lang tên huý của chàng,
Tuổi tròn mười tám, trai đang sức thừa.
Truyền nối được năm đời vua,
Hai trăm năm chẵn đúng vừa tại ngôi.
Nhiều năm trồng trọt, chăn nuôi
Được mùa ngũ cốc, nơi nơi vui mừng.
Dân đã biết làm bánh chưng,
Bánh dầy ngày Tết, mãi cùng dân ta.
Chi bảy cũng đã trải qua,
Thời gian dựng nước, nay đà chuyển chi.
8. Là chi thứ tám trị vì,
Vân Lang tên huý nay thì lên ngôi.
Năm ba mươi chín tuổi đời,
Hùng Vi Vương hiệu tại ngôi bấy giờ.
Năm đời nối tiếp kế thừa,
Thiếu một năm nữa thì vừa trăm niên.
Đến đây chi tám hết duyên,
9. Chuyển sang chi chín giữ quyền tiếp theo.
Chân Nhân Lang huý ngự triều,
Bốn mươi lăm tuổi lái chèo nước non.
Ba đời truyền nối cháu con,
Tám mươi năm giữ ngôi son bấy giờ.
10. Chi mười tiếp giữ ngọn cờ,
Hoàng Long Lang nối nghiệp xưa Hùng triều.
Hùng Uy Vương hiệu tiếp theo,
Ba mươi bảy tuổi sớm chiều ngự ngôi.
Cháu con cả thảy ba đời,
Chi mười đó chính là thời Hùng Uy.
Thời vận đã tới hạn kỳ,
11. Chi thứ mười một nay thì lên thay.
Chính danh Hưng Đức Lang nay,
Hùng Trinh Vương hiệu ngày rày lên ngôi.
Truyền kế nhau được bốn đời,
Một trăm lẻ bảy năm trời trôi qua.
Tới đây xã tắc sơn hà,
Thay đổi niên hiệu cũng là tất nhiên.
12. Chi thứ mười hai nối liền,
Hùng Vũ Vương hiệu, nguyên niên bắt đầu.
Ba đời Thủ lĩnh trước sau,
Tám lăm năm vững nhịp cầu Hùng xưa.
13. Chi thứ mười ba kế thừa,
Tuấn Lang danh huý, tuổi vừa hai ba.
Hùng Việt Vương hiệu, chính là
Một trăm lẻ ngũ niên qua nắm quyền.
Năm đời, Thủ lĩnh kế truyền
Triều đại có hậu, có tiền xưa nay.
Chi Hùng Việt Vương tới ngày
Phiên hiệu đến lúc đổi thay, lẽ thường.
14. Chi thứ mười bốn khai chương,
Hùng Anh Vương hiệu, tiếp đường Tổ Tiên.
Viên Lang tên huý, giữ quyền
Bốn đời Thủ lĩnh giữ nền Tổ Tông.
Qua chín mươi chín năm ròng,
Anh Vương cũng đã tới vòng chuyển luân.
15. Chi thứ mười lăm đến tuần,
Hùng Triệu Vương hiệu, đầu xuân ngự trào.
Cảnh Chiêu Lang huý ngôi cao,
Ba mươi lăm tuổi bước vào cung son.
Ba đời cả thảy Cha Con,
Chín tư năm đó vẫn còn sử ghi.
Việc đời đều có hạn kỳ,
Cuối đời Hùng Triệu chuyển chi, lẽ thường.
16. Nay chuyển sang Hùng Tạo Vương,
Là chi mười sáu, lẽ đương nhiên rồi.
Đức Quân Lang huý tiếp ngôi,
Thủ lĩnh bộ lạc, ba đời truyền nhau.
Chín mốt năm nối nhịp cầu,
Hùng Vương thời đại dài lâu vững bền.
Kể từ khởi thuỷ khai nguyên,
Dư hai ngàn ba trăm niên hẳn là.
Mười sáu chi Hùng đã qua,
17. Chuyển chi mười bảy, đó là Hùng Nghi.
Bảo Quang Lang huý trị vì,
Khi mới chín tuổi đã thì lên ngôi.
Hùng Nghi Vương được bốn đời,
Trăm năm mươi chín niên thời trải qua.
Thời đó xã tắc sơn hà,
Địa phương vài chỗ thật là rối ren,
Nổi lên chống lệnh cấp trên,
Ý đồ cát cứ riêng quyền đó khi.
Triều đình cho mở khoa thi,
Tìm người tài trí, tâm vì nước, dân.
Có chàng họ Lý, chí nhân
Văn Lang tên gọi, tuổi gần hai lăm.
Giỏi cả võ nghệ, thi văn
Vua cử giữ chức Trung quân lãnh đầu.
Cầm quân dẹp loạn các châu,
Yên dân, yên nước, Tước hầu  Vua phong.
Chàng trai vẹn cả hiếu trung,
Nguyệt Cư công chúa trong Cung mến tài.
Vừa đôi, phải lứa gái trai
Vua cho được phép duyên hài là đây.
Vua tôi, dân đã chung tay
Vượt qua cả chuỗi tháng ngày khó khăn.
Việc đời tuần tự thứ lân,
Chi thứ mười bảy chuyển luân ngày rày.
18. Chi thứ mười tám lên thay,
Hùng Duệ Vương hiệu, đến ngày lên ngôi.
Khi mới mười bốn tuổi đời,
Huệ Lang tên huý, chính Người ngôi Vua.
Trăm năm mươi tết đúng vừa,
Khoảng sáu đời đã kế thừa ngôi Vương.
Tới đây như cuối chặng đường,
Nguyên khai công xã thọ trường Văn Lang.
Hùng Duệ Hoàng tử, nhiều chàng
Đều bị yểu tử, xốn xang hậu kỳ.
Còn lại hai gái, nữ nhi
Tiên Dung là chị, em thì Ngọc Hoa.
Tính tình hiền dịu, nết na
Dung, công, ngôn, hạnh thật là mười mươi.
Tiên Dung nhan sắc tuyệt vời,
Một hôm, nàng đã đi chơi bằng thuyền.
Gặp Chử Đồng Tử, kết duyên
Người con chí hiếu, thảo hiền phúc đa.
Còn nàng công chúa Ngọc Hoa,
Cung đình nàng được Vua Cha quý chiều.
Công hầu mai mối cũng nhiều,
Duyên thiên chưa định, nàng đều chưa ưng.
Nàng đã trọng dũng, hiếu, trung
Vua cho mở hội võ công thi tài.
Thủ lĩnh ban lệnh thi bài
Tay không thắng hổ, chớ ai coi thường.
Nguyễn Tuấn bước tới đấu trường,
Tay không đánh hổ, bị thương bấy giờ.
Trên người không vết hổ vồ,
Chàng trai bước tới trước Vua vái chào.
Vua khen mưu trí, tài cao
Công chúa vui vẻ ưng giao duyên cùng.
Lúc này giặc dã tứ tung,
Nổi lên chiếm giữ mấy vùng sơn khê.
Thục Phán, cháu họ cũng thì
Đòi Vua nhường lại quyền uy cho mình.
Đã từng gây chuyện bất bình,
Vua phong Nguyễn Tuấn lãnh binh đứng đầu.
Tuấn liền quỳ gối muôn tâu:
Vì dân vì nước, con đâu chối từ.
Cầm quân dẹp loạn, nội thù
Chàng thật dũng, trí, mưu cơ hơn người.
Dẹp yên phiến loạn khắp nơi,
Trời quang mây tạnh cuối thời Văn Lang.
Vua Cha gợi ý với chàng:
Tuổi già, Cha muốn ngai vàng nhường con.
Thiết tha, lời lẽ thiệt hơn:
Tước hầu, con được đội ơn Cha rồi.
Để hợp tình lý ở đời,
Tổ Phụ để lại từ thời xa xưa.
Xin Cha trao lại ngọn cờ
Nội tộc Thục Phán, cơ đồ Văn Lang.
Đây là thực đáy lòng vàng,
Xin Cha độ lượng, kỹ càng xét soi.
Vua Cha cảm động lệ rơi,
Thuận ưng thành ý con người hiếu trung.
Duệ Vương trao lại Long cung
Thục Phán được kế bệ Rồng, còn ghi.
Phán đã dựng cột đá thề,
Trên đỉnh núi Tổ nguyện vì giang sơn.
Đến nay cột đá vẫn còn,
Ghi lại dấu tích vàng son thời Hùng.
* * * * *
Khai nguyên lịch sử lẫy lừng,
Ngày nay con cháu Lạc Hồng tiếp theo.
Đảng, Bác vĩ đại lái chèo
Con thuyền cách mạng vượt nhiều gian nguy.
Nay dân tộc vững bước đi,
Con đường lịch sử đã ghi Sổ Vàng:
Tổ Quốc to đẹp đàng hoàng,
Xã hội chủ nghĩa vững vàng tiến lên.
Cộng sản nguyên thuỷ khai nguyên,
Xã hội chủ nghĩa đương nhiên hiện giờ.
Ngày nay cộng với nguyên sơ,
Hai bảy thế kỷ gần vừa đủ niên.
Đó là đất nước Rồng Tiên,
Công bằng xã hội đẹp thiên Sử Vàng.
Hai bảy thế kỷ chói chang,
Xã hội chủ nghĩa  rõ ràng chẳng sai.
Năm châu bốn biển, không hai
Việt Nam lịch sử đó dài quang vinh.
Xã hội chủ nghĩa trường sinh,
Hàng đầu thế giới đã thành vô song.
Đã là con Lạc cháu Hồng,
Phải hiểu lịch sử Tổ Tông dựng nền.
Xã hội chủ nghĩa lưu truyền,
Tổ quốc Hồng Lạc lâu bền chói chang.
Dân tộc vĩ đại vinh quang,
Tổ Tông để lại cả giang sơn hồng.
Xứng danh đất nước Tiên Rồng,
Vẻ vang con cháu Vua Hùng muôn thu.
Văn Lang từ thủa xa xưa,
Thật là hùng vĩ, nên thơ cõi Trần.
Tổ quốc tươi đẹp muôn phần,
Chính là Tiên Tổ đức nhân xây đời.
Cháu con Hồng Lạc giống nòi,
Phải hiểu Quốc sử từ thời Hùng xưa.
Văn Lang, công xã nguyên sơ
Hai sáu thế kỷ, có thừa xuân tươi.
Ngót ba ngàn tuổi xây đời,
Bách Việt một khối chung nôi Mẹ Hiền.
Xã hội không có nhiễu phiền,
Không có ganh tỵ, tranh quyền thứ ngôi.
Thủ lĩnh cùng với mọi người
Cùng làm cùng hưởng, đó thời Văn Lang.
Không có giai cấp cao sang,
Mọi người bình đẳng, ngang hàng bình dân.
Cộng đồng hữu ái, hợp quần
Coi nhau như thể tình thân gia đình.
Bách Việt từ thủa khai sinh,
Là những năm tháng bình minh rực hồng.
Là nhờ công đức Cha Ông,
Đó là truyền thống Tổ Tông nhân hiền.
Cũng là văn hiến Rồng Tiên,
Cũng là đạo lý khởi tiền Việt nhân.
Dư hai ngàn sáu trăm xuân,
Hùng Vương dựng nước muôn phần uy linh.
Công bằng xã hội tạo hình,
Rõ ràng quản lý, công minh điều hành.
Người người đồng cảm chân thành,
Cộng đồng chung sống nghĩa tình trước sau.
Ý thức hệ thủa ban đầu,
Tinh thần tập thể in sâu chữ “đồng”.
Chỉ có một lợi ích chung,
Đó là bản sắc Lạc Hồng khai nguyên.
Khắp trong toàn quốc, mọi miền
Ngược xuôi, nam bắc tâm hiền cháu con.
Kiên trung một dạ sắt son,
Lễ nghĩa, hiếu thảo sao tròn đức nhân.
Trong nước, ngoài nước, xa gần
Là dòng máu Việt, là dân Lạc Hồng.
Hướng về Nguồn Cội Tổ Tông,
Giang sơn Bách Việt, Cha Ông tạo hình.
Phong Châu - Phú Thọ, nơi sinh
Giống nòi Hồng Lạc quang vinh đời đời.
Đền Hùng đó, cháu con ơi
Việt Nam linh tự đời đời nhớ ghi.
Hồn thiêng đất nước tụ quy,
“Sơn hà Nam quốc...”  Quốc thề tối linh.
Rồng Tiên nòi giống quang vinh,
Gần năm ngàn tuổi tồn sinh đẹp bền.
Thật là kỳ tích khai nguyên,
Hùng Vương  mười tám chi truyền kế nhau.
Khoảng trăm đời Chủ đứng đầu,
Văn Lang bộ lạc thắm mầu vàng son.
Muôn đời Hồng Lạc cháu con,
Luôn luôn ghi nhớ công ơn Nhân Tiền.
Nhìn lại lịch sử khai nguyên,
Mẹ Cha  thật Đấng Phật Tiên tôn thờ.
Trăm trứng ứng Bách Việt xưa,
Khởi đầu Việt quốc, bài Thơ nghĩa tình.
Thiên Việt sử đã chứng minh,
Rồng Tiên duyên thắm nghĩa tình Văn Lang.
Hùng Vương, lịch sử sang trang
Thủ lĩnh Hùng Duệ chuyển sang Thục triều.
Khai nguyên sơ lược mấy điều,
Dâng Nam Phật điện đài chiêu Quốc hồn.
Cũng là Ngọc điện, Quốc ơn
Tâm trung, hiếu, nghĩa cháu con dâng trình...

Thứ Bảy, 23 tháng 7, 2016

Rửa Tâm!

------ Tự Nhủ -----
Khải Hoàn Lương , Tâm Vô Thiên Mẫu
Phu Bình Tử Vĩ Dạ Kỳ Duyên
Khất Vì Hiếu, Tọa Thủ Vì Phong
Tôn Nghĩa Hiệp Võ Sơ Tân Hành

Thoáng qua cuộc đời , có trải qua cũng chỉ là nhân duyên sinh thành, từ thủa thiếu thời có vị nào cho rằng mình là ai chưa ? Hay chỉ ngộ nhận và phủ định toàn bộ số mệnh của người khác, cho rằng bản mệnh riêng mình là cao quả đắc tài ngàn kiếp ?
Ở đời , dẫu rằng có sự phân chia tất cả mọi thứ trắng đen hầu mỹ có bao giờ hoàn mỹ tuyệt đối đâu bao giờ ? Con người cứ thực sự vì điều gì để chậm chân sau cuối đời nghĩ lại đều do khẩu nhân bản tính nhân thân mà chuốc lấy ưu phiền ? có sinh cũng là do chúng ta tạo ra , có triệt cũng là do chúng ta hủy hoại , sự sinh tồn này ngàn đời không bao giờ kết thúc.
Hóa thân để hành xác đó chính là nguyên lý tuần của mệnh chính loài người, đừng bao giờ ngộ nhận bản mệnh căn linh bản ghép mình là ai ? nếu là ai đó trong số vạn linh hồn cao thượng thì cần gì chúng sinh phải khổ như bây giờ ? nếu hữu hồ vì ẩn ý ngầm hiểu đến với đối phương, làm họ rùng mình tưởng nghĩ là họ , thì lẽ đời đâu còn lý uyên ? Khả dĩ môn hộ pháp đều rèn đức rèn tâm, khổ đau có chạm phải cũng chỉ là tức thời hạn thịt của con người, đừng vô cớ tạo tả để tinh thần khí bất ổn trọng suy, hiểu lẽ đời đó là nguyên trần tốt đẹp, nhưng hành lễ đời chính là rửa tâm của bản thân cho đẹp, ước chi thời gian có trở lại ? thời gian chỉ quy hình chứ không quy định bao lâu, sẽ mãi mãi, chỉ có con số mới nói thời gian đang cuốn đi thế hệ ngàn kiếm sinh thành, hãy lưu vong cuộc đời bằng ấm thương lòng vạn vật, thỏa đáng tình thương con người với tất cả cầu sinh này, Pháp môn hộ đối nào viết ra cũng chỉ là nét vẽ , hãy tôn trọng vạn lý, chỉ có thế mới khiến con người giác ngộ.
Người đời có câu : Khẩu ngôn giỏi, Chi múa đắc thì vẫn chỉ là thường niên kiếp, Hãy hành nhân trong im lặng hữu hình thì cõi vô hình mới được hiển linh và vạn vật mới được bình an.
Phước Truyền Sóng Thiên Mang Âm Vượng
Liễu Bừng Lệ Nghiêng Mác Úa Sầu
Vĩnh Cường Kinh Dương Nội Hành Khúc
Khứ Khẩu Tam Thai Bát Tọa Thành
Âu Dương Kỳ Ngộ Niên Niên Tả
Hóa Hỷ Mộng Ai , Kiên Định Thần
Khí Phú Duyên Trần Sơn Thủy Độ
Nhãn Đồng Huệ Ải Bất Vĩnh Tâm.
Xin hãy trở lại trạng thái bình thường để được hưởng sự an lành và cực lạc, cõi ấy không phải đâu xa mà chỉ tồn tại trong hiện tại , trong bản mệnh và trong tâm hồn, cứ cố gắng hóa nhận bản thân thành vị thần khắc khoải sẽ chỉ đem lại sự sầu bi trong tinh thần, đem lại sự khó chịu và sự căng thẳng trong nội tâm, khi đó dơ tay ra cứ ngỡ tay của người khác , tẩu hỏa tâm sẽ khiến sự mượn xác của linh hồn không còn là giá trị, 7 phần 10 sẽ chỉ còn 3/7, lẽ nào không hiểu ngọc thể sinh thành được khó thế nào, từ vạn vật nhỏ lẻ mà thành người để tu hành đó chính là ngưỡng cầu giá trị, bởi vậy hãy tôn trọng vạn vật vì đó là nấc thang cho chúng ta hé lộ vũ trụ tâm hồn

Chủ Nhật, 3 tháng 7, 2016

Thượng Đế giảng chân lí


     Đây là bài giảng Thiêng Liêng sẽ thức giác được chơn hồn ,để hòa hợp trong âm ba Vũ Trụ

https://www.youtube.com/watch?v=XcfgxxZsguA

Thứ Hai, 6 tháng 6, 2016

Lễ giải hạn ách đối với người học Thiên Đạo( Đạo Trời)

                                                           HƯỚNG DẪN
TỰ LÀM LỄ CẦU GIẢI HẠN ÁCH, NĂM XUNG THÁNG HẠN, CHỮA BỆNH NẶNG. XIN TĂNG SỨC, AN LẠC.
          
                                                          Lập 3 mâm Lễ:

-Vật phẩm tùy tâm
Yêu cầu:
                                Nếu có Thiên Phù thì treo trên cao ở giữa rồi hành lễ

Mâm 1-Lễ Vua Cha, Mẫu Vương và Thiên đình: Toàn đồ chay tịnh: Hương hoa, chè, xôi, bánh, không đốt hương đen.
-Mâm đặt cao nhất. Đốt 3 ngọn nến, đặt ngang hàng, ngọn ở giữa cao hơn hai ngọn bên.
Mâm 2: Lễ các vị tôn thần, thiên binh tướng, Táo quân, thành Hoàng, long thần bản thổ.
Mâm này lễ đồ mặn, tiền thật, rượu, hoặc bia đều được. Không cúng hàng mã.
-Để ở giữa.
Mâm 3: Lễ gia tiên ( Cửu huyền thất tổ).
- Mâm này lễ đồ mặn, tiền thật, rượu, hoặc bia đều được. Không cúng hàng mã.
-Để ở dưới thấp hơn mâm 2.
-Các mâm dùng cốc để cắm mỗi mâm 3 nén hương.
-Khấn như trong sớ. In ra đọc rồi đốt.
          
                   “THIÊN ĐẠO THÁNH ĐỨC-PHỔ GIÁO CHÚNG SINH
                             ĐẠI ĐỒNG-ĐẠI THIỆN-ĐẠI MỸ-ĐẠI LINH
                                                     

                                                            SỚ CẦU
                                   Chữa bệnh, giải hạn ách, được an lạc

Con xin Kính thỉnh:
-Vua Cha Cao Minh Ngọc Hoàng Thượng đế- Đại tổ các tôn giáo và Thiên Đạo.
-Đức Vương Mẫu Đại từ bi.
-Hội đồng chư tôn Phật, Thần, Thánh, Tiên các tôn giáo.
-Các Đại cổ  Thiên thần Bắc Đẩu Thất tinh, Nam Tào, Bắc Đẩu quản số mệnh.
-Các quan Giám điện Thiên triều, Ngũ vị Vương quan, Đương niên Thiên quan Thái Tuế Chí đức Tôn thần, các vị  Thiên Tôn; các cung trên Thiên đình.
-Các ngài Đông trù Tư mệnh Táo phủ thần quân, Long thần, Thổ địa, Thành hoàng bản thổ.
-Cửu huyền thất tổ bản gia.

                                       Hôm nay là ngày… …  tháng……..năm .....
Chúng con gồm:
                              Họ và Tên:…………………………………Tuổi………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………....................
Bản gia ngụ tại: đội (thôn)………………………………………….
Xã (phường)………………Huyện (thị trấn)………………………..
Tỉnh (thành phố)……………………Thuộc nước………….
Hôm nay chúng con có lễ kính dâng lên Thiên Đình  và các đấng bề trên, mong các đấng bề trên giáng hạ, ngự lãm.

                       Chúng con xin kính thỉnh Cha, Mẹ và các Thầy việc như sau:
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
-Kính xin Cha, Mẹ, Các thầy cứu độ.
-Con xin sám hối những tội-lỗi đã mắc phải trong đường ăn đường ở còn sai xót từ trước đến nay.
                                                       

                                     Kính ơn Cha ( Thượng đế)

Trên đỉnh Trời cao chót vót!
Toà Bạch Ngọc Đài, Cha ngự Thiên Linh
Cha sinh muôn loài, Cha của muôn sinh
Hạnh phúc nào bằng Cha trao cho sự sống
Cha là  Trời mênh mông lồng lộng
Cha là dòng máu hồng chảy mãi trong tim
Cha là ánh sáng  ngọt ngào rất đỗi dịu êm
Đưa chúng con vào cuộc trường sinh bất tử
Cha là ngọn đèn muôn năm soi tỏ
Vạn kiếp chúng con đi như gió bên Người
Người là dòng sông nguyên khí sữa nuôi
Mật ngọt và đắng cay, Cha chở che nhẫn chịu
Võng Ngân Hà, Cha đan cho con, Mẹ địu
Trên vai Người lịch sử nối vạn triệu năm
Nụ hoa đời cho Hạ thế chỉ chăm
Công tưới ấy, Thiện Mỹ này Cha dạy
Trong Vũ trụ ngọn  Nguyên Đăng bỏng cháy
Gieo bình minh đến khắp thế gian
Tạo giàu sang, nâng đỡ kẻ cơ hàn
Nuôi văn minh, sửa sang đời lạc hậu
Cha truyền cho ngọn nguồn tranh đấu
Sức sống vươn lên chân chính của muôn loài
Cha chở che, đùm bọc thủa hoài thai
Gieo mầm sống cho vạn đời nhân thế
Công ơn ấy làm sao đo đếm xuể
Khi sinh linh vạn giới bởi tay Người!
Ôm trọn vòng tay, Người-Vũ trụ, Người ơi!
Con -hạt cát trong tay Cha vĩ đại
Con xin dâng lên Đức Cha hiền mãi mãi
Linh hồn con-giọt ngọc của Cha
Tâm hồn con là một bông hoa
Dâng hương ngát lên vườn Thượng giới
Ánh mắt con như vạn lời hướng tới
Dâng lên Cha lời hát ngọt ngào
Đây hồn con như khí thanh tao
Rửa hết bụi hầu bên Cha ngự
Bao vật phẩm của thế gian các thứ
Con dâng lành cung chúc Cha thương
Và Cha ơi, trên mọi nẻo đường
Con cầu mong Cha thường nhắc việc
Giáng Thiên linh cho tỏ tường các kiếp
Phù nhân gian, phù thiện phù sinh
Diệt ác gian trọc hết lọc thanh
Cho thêm sức an lành cuộc sống
Đức phủ trùm là Trời biển rộng
Thượng Đế Cao Minh con xin kính thương Người! 
          Kính Mẫu Vương

Nơi chính giác Thượng Thiên cõi tám
Đất Phật diệu huyền cực lạc Thiên Linh
Mẹ ban quyền giáo hóa chúng sinh
Quản nhân mạng thọ toàn duyên nghiệp
Mẹ sinh ra chúng con các kiếp
Cho nhân luân số phận làm người
Là cội nguồn sự sống khắp nơi nơi
Ân quả ấy tạo nên thời Thánh Đức
Kim Tự Tháp ngự tình Vương Phật
Tâm giáng sinh truyền giáo đời này
Đem giáo lý phổ khắp tới nay
Gieo đức thiện ngàn năm ghi tạc!
Lòng mẹ bao la như muôn ngọn thác
Rửa chuộc khổ đau ghánh tội nhân luân
Dạy dỗ bảo ban cho loài người thế tục
Xin dâng lên Mẹ vạn lời con chúc
Cho khổ đau vơi bớt Mẹ ơi
Mong cho Mẹ được nở nụ cười
Đây Thiên Đạo chúng con vào Thánh Đức
Đại Đồng này dâng lên Người thiện ngọc
Là hoa đời cực lạc muôn năm…..

                                  Họ và Tên:……………………Kính tấu!   
 



















                                                                                                         ”


             -Khấn xong, để khoảng 20 phút thì tiễn các ngài, quì xin hạ lễ, rồi đốt sớ cầu.
                                                    
                                                     Một số điều lưu ý:

-Cấm khấn các việc ác, hay cầu lên quan chức cốt để tham quan ô lại, học dốt đi thi lấy may, buôn bán gian trá, hại người thiện, tranh đoạt, cầu tiền ích kỷ vinh thân phì gia
 ( Tự phấn đấu, không ai độ cho những việc cơ hội tâm linh. Vì chúng sinh nhiễm lậu, cầu lợi cơ hội, nên làm nhiễm tạp tất cả các cảnh chùa, đền trong thời mạt pháp các đạo,bề trên không độ trì cho các việc ấy)
-Chỉ được cầu giải hạn ách, thêm sức chữa bệnh tật, xin trấn áp kẻ ác, bản mệnh an lành, thêm tuổi thọ, gia đình xã hội hạnh phúc, an lạc.
-Kỵ cầu không được, thì chửi, báng lại. Bệnh nạn, do nghiệp chướng, nghiệp quả  nặng, là do căn số phận, tội lỗi các kiếp trước, kiếp này gây ra-không ai ghánh thay cho những thứ đó, muốn được cứu độ, phải tin tưởng, có lòng kính tín tâm linh chân thành, phải sửa tính
xấu thường ngày nếu có, như: hận thù, thói xảo ngôn, hồ đồ, ghanh ghen đố kỵ, tranh tham, buôn gian bán lận, khinh thị người nghèo, ác tâm, xảo trá vô minh coi khinh thế giới tâm linh, thói chửi trời rủa đất ghét nắng chửi mưa, phá hại, gây ô nhiễm môi trường, tàn sát tôm cá, làm nghề hàng giát, giết mổ, bóc lột người nghèo, tính ác hại người thiện, hay bới lỗi người khác, ghét kẻ chân chính hơn mình; tranh dành công danh tài lộc, tham nhũng, đánh vợ chửi chồng, thích giết hại chúng sinh, thói xấu trong ăn uống nghiện ngập, ngại giúp lại người khác… Tất cả những người này, nếu cầu mà không thấy khỏi, thì chớ trách Trời.
-Chống Cơ hội tâm linh (bạ đâu cũng cúng, cũng cầu, nhưng bảo sửa tính, hay tu luyện, làm phúc, ăn chay lấy vài ngày để chữa bệnh, thanh lọc cơ thể, luyện dưỡng sinh thì lại ngại! Đi đâu cũng khấn vái, nhưng hỏi đạo đức Phật giáo là gì, thánh thần đó đạo hạnh ra sao, thì không biết; bảo thờ tự Cha Trời, thì ngại, đọc kinh chép sách, cốt chỉ là hình
tướng. Nhưng lại sẵn sàng cúng bất cứ gốc cây, hòn đá hay có vong tà ma quỉ ác nào đó, là sụp lạy, miễn là thấy thiêng, thấy được việc, nhưng đó là vay rồi phải trả…số phận chỉ thay đổi, khi đức năng thắng số).
Thời mạt thế, chúng nhân đi chùa chiền đình đình điện nhiều, nhưng không thấy ai cầu cho mọi người cùng hạnh phúc, nhân dân thái bình, cầu độ cho sáng tâm sáng lòng, giác ngộ Chân Lý, hết vô minh; chỉ toàn cúng xin lộc, tiền, danh, tài; ai cũng như thế, thì sao xã hội chả rối reng! Đó là điều mạt pháp các đạo từ đầu thế kỷ 20 rồi, thấy chúng sinh đi chùa đền nhiều, là người nghiêm túc, thì thấy  không đáng mừng, vì cốt cầu lợi danh, chứ không còn người tôn sùng tôn giáo ấy mà tu tập theo, hay đến đó để ngưỡng vọng đạo đức những vị thánh thần ấy để học tập theo. Hiện các đạo đều mạt pháp, theo luật mới của Thiên đình, tốt nhất là thờ Trời ở nhà và tu luyện để tự cứu mình trước khi trời cứu. Kẻ đi cầu nhiều mà hết được bệnh, hết nạn hiện nay rất hiếm. Chớ mê muội.
-Những căn bệnh lớn, nghiệp quả nghiệp căn sâu nặng nề, thì phải làm theo 9 điều không phạm, tự tu luyện lấy, tự cứu độ mình là chính, làm phúc làm đức, may ra mới giải được! Phải làm lễ giải tại nhà, rồi sau đó phát nguyện đi làm công đức cho những người nghèo khổ, giúp người khác, hoặc thờ Trời, thiền tịnh tu luyện khí công cho mau hết bệnh.
-Đối với người Thiên chúa giáo, Hồi giáo, có thể khấn Đức Chúa Trời ( cũng là Vua Cha Thượng đế- ông Trời); có thể không đọc bài Kính ơn Cha, thì đọc bài kinh bên Thiên Chúa giáo, Hồi giáo cũng được. Nên kính tất cả các thiên thần-Thực chất là như nhau trên thiên đình, cách gọi khác nhau mà thôi.
-Đối với việc siêu thoát cho vong linh tiên tổ, thì phải ghi tên tuổi, năm sinh, năm mất của người vào sớ, xin Cha, Mẹ, các thánh thần cho họ siêu thoát, phải kêu đến tên các vị xin siêu thoát ấy về dự lễ. Sau đó, phải hồi hướng công đức lại cho người nghèo khổ, làm từ thiện, để trả thay nghiệp quả cho tổ tiên, bù lại thì tiên tổ do được siêu thoát, trở lên linh thiêng, sẽ độ trì lại cho tốt đẹp. Các vong đã qui sai vào chùa, nếu chưa được các Phật độ cho siêu thoát, thì cần làm lễ siêu thoát, tránh để vật vờ ăn xin đói lạnh nơi cửa phật-nơi đó là nơi tu hành, chứ không phải là  nơi chứa xương cốt, ảnh của người chết ngoài đạo Phật.
Đạo Phật vốn không công nhận có linh hồn, không Thượng đế Tối cao, không cúng mặn, không cúng vàng mã; sư sãi không đi cúng, không xem bói, không ăn mặn. Chỉ nên khấn Phật cứu khổ cứu nạn-khi mình biết đạo đức nhà Phật, tin, theo đạo Phật; còn nếu tham-sân-si thì chớ cầu-vô ích.
-Đối với việc hóa giải tâm linh như bắt tà ma, phá bùa bả yểm đảo, thì cứ tấu trong Sớ bề trên sẽ xét giải cứu.
-Đối với việc hóa giải hàn long mạch, nối long mạch, hóa giải thổ đất, cuộc đất hay phong thủy, tẩy vía, trong thổ đất có xương cốt, thì có thể cũng làm Sớ mà trình tấu, nếu phức tạp thì phải nhờ thầy ngoại cảm đến nơi nghiên cứu thêm.
-Nơi có nhiều âm khí, sát khí, nơi có rớp tai nạn đường xá, sông ngòi, các nơi chiến trường, nghĩa trang….thì cũng làm lễ như trên để lễ hóa giải, siêu độ. Niệm Thiên Phù ốp áp xuống mà phá giải. Niệm Bắc Đẩu Thất Tinh phá hóa đi.


                                

Thứ Bảy, 4 tháng 6, 2016

Chữ Lễ đối với Người Thiên Đạo

                                                     LUẬN BÀN VỀ VIỆC CÚNG LỄ


                                                              Lễ là kính Tổ kính Tiên.

                                                        Lễ là hiểu Đất, hiểu Trời, hiểu Ta.
                                                        Lễ thời phải biết gần xa
                                                        Lễ là Định được chỗ Ta với Người
                                                        Tôn ti trật tự trong ngoài
                                                        Quy luật vũ trụ xoay vần vần xoay
                                                        Hiểu Người hiểu Đất hiểu Trời
                                                        Mới hay phép Lễ làm Người phải thông !
                                                        Người biết Lễ trong ngoài trật tự
                                                        Lẽ tự nhiên cư xử tùy thời
                                                        Luật Thiên tiến hóa muôn loài
                                                        Thuận theo Thiên Đạo hợp thời hợp Nhân
                                                         

Thường thì chúng ta hay nhầm lẫn giữa Cúng, Bái và Lễ. Vậy đầu tiên hiểu Lễ là gì ? Người xưa đã bàn nhiều về Lễ và còn ghi lại rất nhiều trong các sách xưa của các học giả như Khổng tử, Mạnh tử, Tuân tử, Aristotle…nhưng ở thời đại khoa học vũ trụ , phát triển của vật lý lượng tử, trường sinh học, công nghệ phản trọng lực, hợp hạch,… Chúng ta cần có một cách nhìn hợp với thời đại mới này !. 
Lễ là một danh từ rất bao quát, hàm súc rất nhiều ý nghĩa: tựu chung lại là Lễ là Định vị trí của con người, mỗi người với Trời đất, với Tổ quốc, với Xã hội loài người từ đó khi hiểu vị trí, ý nghĩa mục đích, bổn phận của mình rồi thì mới biết được mình phải cư xử ra sao đối với vạn vật sinh linh, Trời đất, môi trường quanh mình. Hiểu Lễ thì mới biết mình biết người, biết Trời, biết Đất mới thấy được trách nhiệm và quyền lợi của mình với cuộc sống này, hơn hết là biết được ý nghĩa của cuộc sống và xác định được mục đích để mà tiến hóa của Linh hồn để tiến tới Chân, Thiện, Mỹ trong kiếp người này của mình. Vậy Lễ là hiểu và hành sao cho hợp Luật Trời, hiểu lẽ tôn ti của Trời đất (thuận quy luật tự nhiên, quy luật vũ trụ) và theo Luật Nhân (Luật của xã hội loài người do con người đặt ra).
Luật Nhân do con người tạo ra chính dựa theo tôn ti trật tự của Trời đất mà mình định ra tôn ti trật tự cho xã hội loài người ở cõi trần này, có như vậy xã hội loài người mới thái bình an lạc được từ đó mới định được bổn phận, nghĩa vụ, quyền của mỗi người. Khi thực hiện các Nghi thức của Lễ đó là mỗi lần chúng ta nhận thức sâu sắc hơn các quy luật tự nhiên, quy luật vũ trụ để hòa hợp với tự nhiên với vũ trụ càn khôn, nhắc nhở mình đang ở đâu và có bổn phận, nghĩa vụ, mục đích gì trong kiếp sống này hay cũng chính là Hợp Đạo vậy !
Lễ là kính Tổ kính Tiên.
Lễ là hiểu Đất, hiểu Trời, hiểu Ta.
Lễ thời phải biết gần xa
Lễ là Định được chỗ Ta với Người
Tôn ti trật tự trong ngoài
Quy luật vũ trụ xoay vần vần xoay
Hiểu Người hiểu Đất hiểu Trời
Mới hay phép Lễ làm Người phải thông !
Người biết Lễ trong ngoài trật tự
Lẽ tự nhiên cư xử tùy thời
Luật Thiên tiến hóa muôn loài
Thuận theo Thiên Đạo hợp thời hợp Nhân

* Bàn thêm về Lễ : Lễ là điều hợp lý ! là đầu mối của con người vì xuất phát từ Trời và phổ quát khắp các cõi bao gồm cả cõi trần gian do đó Lễ là một đặc tính trong mỗi Linh hồn con người. Biết Lễ thì nên hành cái gì làm cho đời sống ta thêm mạnh khỏe, thêm thư sướng, thêm trật tự, thêm an lạc, thêm hòa hợp, thêm văn minh, thêm tiến bộ. Cái gì làm ta sống xứng đáng với danh nghĩa con người, cái gì nâng cao giá trị con người, khiến con người tiến về phía tinh thần, trở nên thanh cao, tiến hóa thì nên hành. Cái gì làm con người trở nên ti tiện, manh ác, tàn độc, trở nên thoái hóa giống như thú vật thì không nên hành. Đó là hiểu và hành theo Lễ vậy ! 
Nếu mỗi người đều hiểu Lễ và hành Lễ thì gia đình hạnh phúc, xã hội công bình, văn minh, quốc gia thanh bình, thế giới tươi đẹp và cõi trần trên Trái đất sẽ là Thiên đường an lạc. Xã hội ngày này đa phần con người không hiểu Lễ nên mới dẫn đến thoái hóa, thác loạn, tranh cướp, chiến tranh,… cũng vì không hiểu mình là ai, đang ở đâu giữa trời đất này và mục đích của kiếp nhân sinh này. Ngày nay chữ Lễ đã bị hiểu một cách lệch lạc méo mó, và việc hành Lễ ở nhiều nơi chỉ còn hình thức mà quên cái ý nghĩa, cái hồn của Lễ làm biến tướng đến độ một số Bạn Đạo cũng hiểu nhầm việc hành Nghi Lễ là cái gì đó rất mê tín và dị đoan. Dẫn đến việc ngại ngùng và có thành kiến chưa đúng về hành Lễ . Thậm chí coi các Nghi Lễ chỉ là hành động Cúng và Bái. Nhận thức chưa đủ sẽ dẫn đến việc mất tự nhiên khi hành Lễ, vì Lễ là Lẽ tự nhiên là điều hợp lý, cho nên đáng lẽ việc hành cũng phải hết sức tự nhiên từ trong bản chất của mỗi người vậy. Từ đó chúng ta cùng tìm hiểu thêm về Cúng và Bái để nhận thức sâu đậm hơn về Lễ và phép hành Lễ. 
* Cúng, Bái: Cúng là một động từ dân gian thường dùng thể hiện hành động của mình đối với các đối tượng tâm linh. Thường là dâng hiến các vật phẩm lên cho các vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, Trời, Đất,… để mong cầu một điều gì đó. Trong các Nghi Lễ Tôn giáo, Hội Đám thường có hành động Cúng này, cho nên người Đời thường hay ghép thành Cúng Lễ, chứ thực ra trong các Nghi thức của phép Lễ không nhất thiết phải có hành động Cúng. Chúng ta giờ có thể phân tích để thấy sự khác biệt giữa 2 câu mà ngày nay đã phổ biến là “Đi Cúng Thầy” của học sinh, sinh viên bây giờ và “Đi Lễ Thầy” của học trò thời xưa. Bái (Vái): là hành động Chấp hai tay đưa lên trán cầu nguyện. Có thể thấy người biết Cúng thì nhiều mà mấy ai hiểu Lễ và hành được Lễ đây ! Thế nhân đi Chùa thì cầu Lộc, cầu Tài, đến đền, phủ thì cứ cầu xin đủ thứ bốc quẻ , bói toán, lên đồng, vậy là không hiểu và biết về Chùa, đền, phủ , Phật, Thánh, Thần, chưa thấu vai trò và chức năng , quyền năng của các nơi ấy, các vị ấy. Vậy đã hiểu Lễ chưa? Đến để mong cầu dâng vật thực, vậy đã hiểu Lễ chưa? 
Là người đệ tử của Thiên Đạo, học Thiên Pháp mà chưa thông hiểu Lễ thì sao biết được vị trí và vai trò của mình giữa Trời Đất đây, Ta đang ở đâu trong dòng tiến hoá này? Chưa thấy được vị trí của mình thì sao định hướng được mục tiêu cho hành động của mình đây? Trước khi đến đây Ai là Ta, sau này Ta sẽ là Ai ? Nếu biết Lễ phỏng sẽ không khó để trả lời cho câu hỏi trên. Rồi nhiều Bạn Đạo cũng rất hiểu Lẽ Trời đất rồi, nhưng lại rất ngại hành, cho nên người hiểu Lý thì nhiều nhưng hành có mấy ai. Có thể Lòng Bi chưa đủ, Dũng khí còn thiếu, Trí chưa đủ hoạt, cho nên vẫn còn e ngại thói phàm, dư luận, truyền thông, còn bị cuốn theo định hướng của số đông những tư tưởng ở cõi thấp. Chưa thoát ra vượt lên trên nó thì chưa đủ làm chủ thân tâm vậy. Cho nên việc hiểu Lý là một chuyện, chuyện Hành lại là một cấp độ khác. Vậy học trò Thiên Pháp cần thực hành Nghi Lễ để thấu lẽ bí nhiệm huyền vi của Thiên, Địa, Nhân, mối quan hệ biện chứng thống nhất và toàn thể. Tu và thấu Tứ Đại Định Đức sẽ biết vị trí của mình cũng là biết Lễ đó. Các phép Lễ đã có được trong Lễ Kinh của Thiên Đạo, chúng ta cần tự hành qua đó mà thấu hiểu Thiên Đạo cũng là Gốc của mỗi người. Thế nhân mà hiểu Lễ Trời Trần miễn sẽ hóa Thiên Đường đẹp xinh.
Sưu tầm

Vũ trụ tâm là Tình Thương và đức Từ bi

                                                   Nhân Quả Thụ Tâm Cứ Yên Mai
                                                   Ánh Thiên Chiếu Dấu Tọa Trang Đài
                                                   Lưu Dấu Ân Cơ Hoàng Nhân Đạo
                                                   Tu Đời Vinh Thọ Vẹn Hoàn Tâm
                                             

Thiết yếu cuộc đời chính là sự lựa chọn, hãy bằng lòng với sự lựa chọn của mình , ai cũng đều có sự lựa chọn được sinh tồn và được hưởng thụ, nhưng không ai có thể lựa chọn được quyền sinh ra như thế nào, Hiển nhiên giá trị đó chỉ có sự vô hình tham chiếu sự đời mới tìm ra chân lý, sự hướng tâm của con người đều như nhau, thấy nhau cầu thì mình cầu, thấy nhau hành thì mình hành đó là tần sóng tâm linh, hương tâm cầu từ nghiệp, giác ngộ tại tâm thai, lẽ đời có oan nghiệp có khổ đau cũng là vì lẽ sống trải nghiệm, vì chia thân ra đề đầu thai luân hồi, đâu chỉ có sự bi ai mà oán trách số phận ? Nhưng sự hưởng thụ cũng là điều bi ai bi đát là trải nghiệm song song với khổ đau, chính điều này nói lên rằng người giàu sang cũng kêu khổ ? Người thất phu phàm tử tôn nghĩa sơ hiệp cũng kêu khổ ? Nếu như thế thì niềm vui ở đâu ? Hay chỉ có sự sinh và tồn đọng lẽ nào nhân thế tạo hóa ra chớ trêu nghiệt ngã ?
Ở đời hàng trăm hàng tỷ người đều nói được nhưng làm không nổi , hứa được tạo được nhưng đều không xong, quả chín sẽ thơm nhưng rồi sẽ thối ? Lòng người tâm sáng nếu không giữ sẽ chỉ còn tàn đen, có ai thấy được quả chín mà không khen , có ai thấy được người tốt mà không phục ?

Khẳng khái nói với nhau rằng con người hiện tại đến với nhau đa phần vì lợi ích , Tích tiểu vũ hạn kỳ duyên , Miên độ thâm sân độ, lẽ đời còn chưa rõ cuống hồ lợi dụng nhau, hại thân diệt thân và cầu danh, song điều đó còn hãm địa vượng nhân chỉ làm cho tánh khí bộc dốc thay đổi, sống trọn kiếp khác chỉ chọn bộ truyện tranh ? khi kết thúc chỉ còn một động tác gập sách lại có bước sang một trang mới không ? không,,, sẽ không bao giờ còn lịch sử của một cuốn sách trọn kiếp đời người, sẽ chẳng lưu tồn ở đâu ngoài vô hình tiền kiếp đạo, có tu thì tự chứng, từ đủ cách đủ đường nhưng cần hữu duyên và thấu, tử sao chả được đừng ép duyên nhau từ, tất cả âu thiền sẽ độ đạo, ngay cả việc nhỏ đến việc lớn đều là từ mà thành, những gì chúng ta chưa gặp chưa trải nghiệm ngay khi sinh tồn chỉ là chúng ta đã trải nghiệm tiền kiếp rồi, chứ đừng ngồi hiện tại mà than thở cầu trụ.
Nhân Quả Thụ Tâm Cứ Yên Mai
Ánh Thiên Chiếu Dấu Tọa Trang Đài
Lưu Dấu Ân Cơ Hoàng Nhân Đạo
Tu Đời Vinh Thọ Vẹn Hoàn Tâm
** Có loạn có loạn có loan : Vẫn là thơ thẩn
**Có binh có binh có binh: Vẫn là âm duyệt
**Có sóng có sóng có sóng : Vẫn là gió chơi đùa
** Có biến có biến có biến : Vẫn là thử thách
**Có ác có ác có ác : Vẫn là thử tâm suy thân
**Có thiện có thiện có thiện : Vẫn là quả chín sẽ thơm
**Có tiền có tiền có tiền : Vẫn là dè chừng và đè bẹp tâm chính
**Có thời gian có thời gian : Đó mới là của chúng ta.
**** Tự Ngôn ***
Sinh lão bệnh tử là phép luân hồi và là bài thuốc cầu giải nghiệp thân linh hồn, nếu ai biết trân trọng lẽ đời tuần hoàn sẽ sống thanh cao và chân chính, biết trước biết sau, nếu ai coi là kiếp chỉ là một chỉ hết là tận chính là tự thân diệt thân linh, linh hồn sẽ đau khổ. Sinh là có diệt đó là quy luật cuộc đời, không một ai có thể né tránh và than phiền số phận, hãy từ bi và tình thương mới xây dựng nên được chính đạo vũ trụ tâm mình, tại sao nói cầu phật tương trưng không bằng cầu tâm phật , hãy quay về cầu tâm bản thân sẽ hoàn lại sự gian lận và tội lỗi bản mệnh gây ra, hèn nhát không phải cái tội, ngu si không phải cái tội,cái tội chính là sự hèn nhát và ngu si đó đã làm cho tâm mù quáng và bất mãn cuộc đời, tôi nghèo khó, tôi khổ thân, tôi sang giàu, tôi lễ nghĩa vẫn là trải nghiệm để đời tự hoàn thiện tâm và từng kiếp ví như bậc thang , làm sao để bậc thang đó luân chuyển đến tận trời xanh ? làm sao để thấy được cảnh giới vi hoàn mỹ lý, thực sự phải xem lại bản mệnh rồi sẽ tìm ra đường tu chân lý,
Phúc sinh cầu tiến kiếp nhân quan
Tọa độ kỳ duyên tương niên đài
Hoa hữu thiên y hương sinh tỏa
Phiêu dạt trụ phương tứ sơn hồ
Vĩnh thành cổ dĩ tâm tu ải
Họa trải tả phu hóa tước thùy
Phúc xá trao thân in ngàn dặm
Lẽ đời cầu khấn tất vinh danh.

Thứ Hai, 9 tháng 5, 2016

                                              HƯỚNG DẪN
                  SỬ DỤNG TÔN THỜ HOẶC ĐEO THIÊN PHÙ
           

  


                                      
                      Thiên phù màu đỏ-nền trắng
                          ( Đeo trên ngực 9 cm, thờ 30-41cm )
                                             
THIÊN PHÙ: Còn gọi là  THIÊN LINH BẮC ĐẨU TINH PHÙ; tượng trưng cho Thượng đế ( còn gọi là Đức Chúa Trời, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thánh Jehoval, thánh A-La, Jàng, ông Trời, Brahman, Go, Diêu…)
-Là ngôi Trung Phương Thiên Linh Bắc Đẩu Tử Vi Đại Đế-Chúa tể Vũ trụ-Đấng Đại toàn năng-Đại tổ Giáo chủ Thiên Đạo( Đạo Trời ); Cha của thần thánh tiên phật, chúng sinh, muôn loài. Là đấng Tạo hóa đầu tiên, Tối cao Đấng Tự Hữu, Vua trên Thiên Đình-nên gọi là Vua Cha.
-Vòng tròn lớn, tượng trưng cho Đạo, Thượng đế Tối cao (ngôi Vua Cha); --Hai vòng tròn nhỏ, tượng trưng cho hai Hội đồng Tiên thiên và Hậu thiên thần thánh. Hội đồng Tiên Thiên là Hội đồng Vương Mẫu, Hội đồng Hậu Thiên là Hội đồng các Thần thánh.
 -7 ngôi sao, tượng trưng cho 7 sao Bắc Đẩu, là những Trung tâm năng lượng-thần lực của vũ trụ (Thiên đường) cũng là nơi Cha ngự-là quê hương của loài người, là nơi chúng ta đi về sau các kiếp luân hồi. Đây là 7 trung tâm thần lực-tâm linh của Vũ trụ-chính là các Luân xa Gốc của Vũ Trụ. Vũ trụ-Thượng đế có 7 sao trung tâm năng lượng, thì con người cũng có 7 sao trung tâm năng lượng-vậy Thiên Phù tượng trưng cho Thượng đế, cũng là tượng trưng cho bản mệnh con người (tiểu vũ trụ) -Đây là phép tôn thờ và phát hiện thần học tuyệt diệu mới nhất của Thiên Đạo.
Số 7 còn tượng trưng cho 7 cảnh ở Trung giới, 7 đại huyệt (luân xa-trung tâm năng lượng) của con người và vũ trụ, là chỗ dựa của linh hồn tại thể xác.
Cho nên số 7 này tượng trưng cho sinh mạng thọ toàn của con người ở Hạ giới.
-Thiên phù hợp nhất, tượng trưng cho Đấng Đại toàn năng (Vua Cha Thượng đế), sinh ra tất cả, nên nói tôn thờ Thiên Phù là tôn thờ Vua Cha Thượng đế.
-Thiên Phù là vật tối linh, được truyền phép linh thiêng trước khi sử dụng.
-Có thể dùng đeo ở ngực làm linh phù trấn tà ma, tà linh, cầu an may mắn, bảo vệ bản mệnh, cầu khấn 7 vị Bắc đẩu giáng phúc, chuyển phá tai họa....

                      TÌM HIỂU BẮC ĐẨU THẤT TINH

                                             

SAO BẮC ĐẨU-7 trung tâm thần lực-năng lượng Vũ Trụ quyết định mọi số mệnh muôn vật trong vũ trụ.
                   Gồm: 7 vị Đại tinh quân và hai vị tinh quân phù tá.
-Đây cũng là các chính tinh trong môn Tử vi-là các sao bản mệnh.
Các pháp môn, tôn giáo, phong thủy khác nhau trên thế giới, có cách gọi tên 9 vị Bắc Đẩu này khác nhau, nhưng đều rất kính trọng, thống nhất, có sự ảnh hưởng to lớn mọi mặt trong tín ngưỡng, đạo giáo, phong thủy huyền không phi tinh, độn giáp, thái ất, tử vi,  thước Lỗ Ban…

                                                 PHẬT GIÁO
PHẬT THUYẾT:   THIÊN TRUNG BẮC ĐẨU CỔ PHẬT TIÊU TAI DIÊN THỌ .
ÔNG A NAN KỂ: Đúng như thế này: - Chính tôi được nghe , một thời Phật ở Tĩnh Cư Thiên Cung, tập hợp các chư Thiên: Phạm Vương Đế Thích, Bát Bộ Hộ Tứ chúng đàm luận Pháp yếu.
Khi ấy Bồ tát Văn Thù Sư Lợi Từ đứng dậy, tiến đến trước Đức Phật mà bạch Phật rằng:-Thưa Đức Thế tôn, con thấy hầu hết nhân dân sang hèn, côn trùng xuẩn động, nằm trong Thái, Thiếu, Âm, Dương, Ngũ hành Kim, Mộc, Thủy Hỏa, Thổ, thảy đều do nơi Bắc Đẩu Thất Nguyên Tinh làm chủ tể. Vì cớ gì mà bảy sao bắc Đẩu giữa Trời có uy quyền, uy đức tối tôn như vậy?
Cúi xin Thế Tôn vì chúng tuyên thuyết, tất cả nhận Thiền và đại chúng đây thẩy đều quy hưởng.
Khi ấy Phật bảo Bồ tát Văn Thù và đại chúng rằng:
-Quý hóa lắm thay, ta sẽ vì ông và chúng sinh ở đời Vị lai tuyên thuyết duyên do để cho đời sau đều hiểu biết công đức lớn lao của bảy vì sao ấy, phúc thí quyền sinh, ân thí muôn cõi. Ông Văn Thù này: Khắp cõi tể quan, cư sĩ, tăng ni, đạo tục, dù sang dù hèn, cũng chỉ có 7 vị Bắc Đẩu Tinh Quân làm chủ bản mệnh. Thiện nam hay thiện nữ, cứ hàng năm ngày 8 tháng 1, ngày 7 tháng 7, ngày 9 tháng 9, và ngày sinh của mình, mặc y phục sạch sẽ, đối trước Tinh Tượng, chí tâm xưng 7 danh hiệu Cổ Phật và hai Bồ tát, tùy tâm cầu nguyện ...Có thể thắp 7 ngọn nến bày theo Tinh vị, rồi nửa đêm dâng cúng các thứ hương hoa, tinh thủy, dốc lòng cầu khẩn, ắt được như ý.
7 Vị gồm:
1-Ngài Bắc Đẩu: Đại Khôi Dương Minh Tham Lang Thái Tinh quân-cổ phật thế giới Tối Thắng Đông Phương, hiệu: Vận Ý Thông Chúng Như Lai.
2-Ngài Bắc Đẩu: Đại Thước Âm Tinh Cự Môn Nguyên Tinh quân-cố phật thế giới Diệu Bảo Đông Phương, hiêu: Quang Âm Tự Tại Như Lai.
3-Ngài Bắc Đẩu: Đại Quyền Chân Nhân Lộc Tồn Trinh Tinh quân-cố phật thế giới Viên Châu, hiệu: Kim Sắc Thành Tựu Như Lai.
4--Ngài Bắc Đẩu: Đại Hành Tiên Minh Văn Khúc Tinh Quân-cổ phật thế giới Vô Ưu Đông Phương, hiệu: Tối Thắng Cát Tường Như Lai.
5-Ngài Bắc Đẩu: Đại Tất Đan Nguyên Liêm Trinhh Cường Tinh quân-cố phật thế giới Tĩnh Trụ Đông Phương, hiệu: Quảng Đạt Trí Biện Như Lai.
6-Ngài Bắc Đẩu: Bắc Cực Vũ Khúc Kỷ Tinh Quân-cổ phật thế giới Pháp Ý Đông Phương, hiệu: Pháp Hải Du Hý Như Lai.
7-Ngài Bắc Đẩu: Phiêu Thiên Quan Phá Quân Tinh quân-cố phật thế giới Mãn Nguyện Đông Phương, hiệu: Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.
                         Ngoài ra, còn hai ngài Bắc Đẩu Bồ Tát:
Ngài Bắc Đẩu: Đông Minh Tả Phù Tinh quân-Bồ tát thế giới Diệu Hý Tây Phương, hiệu: Hoa Tạng Trang Nghiêm Bồ Tát.
Ngài Bắc Đẩu: Ấn Quan Hữu Bật Tinh quân-Bồ tát thế giới Diệu Viên Tây Phương, hiệu: An Lạc Tự Tại Bồ Tát.
Rồi đức Thế tôn đọc câu Thần chú sau: CHÚ SẠCH 3 NGHIỆP: -ÚM SA PHẠ BA PHẠ - TRUẬT ĐÀ SA PHẠ - ĐẠT MẠ SA PHẠ - BÀ PHẠ TRUẬT ĐỘ HÁM ÚM HÃT NA - ĐÀN NA - CHA CHA ĐẾ - MA HA ĐẾ - SÁT CHA- SÁT CHA ĐẾ - HẠT BÁT MA DUỆ - SA BÀ HA ( 3 lần)

                        PHẬT NÓI KINH BẮC ÐẨU THẤT TINH DIÊN MẠNG

Vị Tăng tên Bà la môn, từ Thiên Trúc 
truyền đến đời triều vua Ðường ở Trung Hoa thọ trì.
Sa Môn Thích Viên Ðức dịch thành Việt văn.
“1-Nam mô Tham Lang Tinh, Thị Ðông phương Tối Thắng Thế Giới, Vận Ý Thông Chứng Như Lai Phật (1 lạy)
2- Nam mô Cự Môn Tinh, Thị Ðông phương Diệu Bảo Thế Giới, Quán Âm Tự Tại Như Lai Phật. (1 lạy)
3- Nam mô Lộc Tồn Tinh, Thị Ðông phương Viên Mãn Thế Giới, Kim Sắc Thành Tựu Như Lai Phật. (1 lạy)
4- Nam mô Văn Khúc Tinh, Thị Ðông phương Vô Ưu Thế Giới, Tối Thắng Kiết Tường Như Lai Phật. (1 lạy)
5- Nam mô Liêm Trinh Tinh, Thị Ðông phương Tịnh Trụ Thế Giới, Quảng Ðạt Trí Biện Như Lai Phật. (1 lạy)
6- Nam mô Vũ Khúc Tinh, Thị Ðông phương Pháp Ý Thế Giới, Pháp Hải Du Hí Như Lai Phật. (1 lạy)
7- Nam mô Phá Quân Tinh, Thị Ðông phương Lưu Ly Thế Giới, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Phật. (1 lạy)
Hằng năm nếu gặp tai ách lễ kinh này bảy lạy.
Khi bấy giờ Phật bảo Ngài Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng: “Kinh này đã nói có đại oai thần lực” có công năng cứu độ tất cả trọng tội và hay diệt hết thảy nghiệp chướng của tất cả chúng sanh.
Nếu có Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, tể quan, cư sĩ, kẻ trai lành, người gái tín, hoặc sang, hoặc hèn, trong đời sống không luận lớn nhỏ đều thuộc sự thống lãnh của bảy vị tinh tú này chiếu soi.
Nếu nghe kinh này thọ trì, cúng dường, chuyển đọc, khuyên bạn hữu, thân tộc, cốt nhục của mình thọ trì, thì hiện đời được phước, đời sau sanh lên chư Thiên.
Nếu kẻ Thiện nam và người Thiện nữ nào có kẻ tiên vong đã qua đời mà bị đọa vào địa ngục, hoặc chịu các thứ khổ sở. Nếu nghe kinh này tin kính cúng dường thì kẻ tiên vong kia liền xa lìa khỏi chốn địa ngục, được vãng sanh về cõi Cực Lạc thế giới.
Nếu có kẻ thiện nam và người thiện nữ nào, hoặc bị loài quỷ mị xâm hại, hay tà ma quấy nhiễu, ác mộng quái lạ, hồn phách kinh sợ, nếu nghe kinh này thọ trì cúng dường hồn phách liền được yên ổn, không còn lo sợ.
Nếu có kẻ trai lành và người gái tín nào, hoặc có sĩ quan sắp bổ chấp chánh. Nếu gặp kinh này tín kính cúng dường thì vị quan ấy liền được mời sang địa vị cao cấp, được đại kiết tường.
Nếu có trai lành và người gái tín, thân bị tật bịnh triền miên, muốn cầu nhẹ nhàng, nên vào tịnh thất thắp hương cúng dường kinh này, thì tật bịnh ấy liền được lành hẳn.
Nếu có kẻ trai lành và người gái tín muốn được tấn đạt, ra đi may mắn, cầu tài vừa ý, buôn bán phát đạt. Nếu gặp kinh này, tin kính cúng dường liền được tiền tài giàu có, vào ra an lành. 
Nếu có kẻ trai lành và người gái tín nuôi tằm hư hao, lục súc chẳng yên, liền ở tịnh thất thắp hương cúng dường kinh này, ruộng tằm vừa ý, lục súc sum vầy, không còn tổn thất cũng chẳng tai chướng.
Nếu có người nữ suốt tháng mang thai, khó khăn nặng nề, nếu gặp kinh này tín kính cúng dường, mẹ con liền được phân giải nhẹ nhàng, ách nạn tiêu trừ, sanh con trai gái, thân hình đẹp đẽ, quả báo sống lâu.
Nếu kẻ trai lành và người gái tín biết được Bắc Ðẩu Thất Tinh, rọi chiếu đời sống nhơn sinh của mình thì trong một đời, hễ có tai ách quan sự miệng tiếng đồn đãi, trăm điều quái lạ. Nếu gặp kinh này tín kính cúng dường thì không còn một việc gì mà phải phòng hại.
Lúc bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói lời ấy rồi, hết thảy thiện nam tín nữ cung kính tín thọ làm lễ mà trở về. ”

           
                      7 vị cổ Phật-Trung cung là Đại Tổ Như Lai (Thượng đế)

                                                ĐẠO GIÁO

Bắc Đẩu Thất tinh: Dùng trong bộ Cương đạp tẩu, cúng sao, văn hóa tâm linh rất rộng rãi…

          Thái Thượng Bắc Đẩu bản mệnh diên sinh chân Kinh, viết:

“Bắc đẩu đệ nhất Dương Minh Tham Lang Thái Tinh quân, tý sanh nhân chúc chi
Bắc đẩu đệ nhị
Âm Tinh Cự Môn Nguyên Tinh quân, sửu hợi sanh nhân chúc chi
Bắc đẩu đệ tam
Chân Nhân Lộc Tồn Trinh Tinh quân, dần tuất sanh nhân chúc chi
Bắc đẩu đệ tứ Huyền
Minh Văn Khúc Nữu Tinh Quân, mão dậu sanh nhân chúc chi
Bắc đẩu đệ ngũ
Đan Nguyên Liêm Trinhh Cường Tinh quân, thìn thân sanh nhân chúc chi
Bắc đẩu đệ lục bắc cực
Vũ Khúc Kỷ Tinh Quân, tị mùi sanh nhân chúc chi
Bắc đẩu đệ thất thiên nhai
Quan Phá Quân Tinh quân, ngọ sanh nhân chúc chi
Bắc đẩu đệ bát Đông minh Ngoại phụ tinh quân
Bắc đẩu đệ cửu Ấn quang Nội bật tinh quân
Thượng thai Hư tinh khai đức tinh quân
Trung thai Lục thuần ti không tinh quân
Hạ thai Khúc sanh ti lộc tinh quân
…………………
Bắc đẩu thất nguyên quân năng giải tam tai ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải tứ sát ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải ngũ hành ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải lục hại ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải thất thương ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải bát nan ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải cửu tinh ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải phu thê ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải nam nữ ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải sanh sản ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải phục liên ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải dịch lệ ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải tật bệnh ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải tinh tà ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải hổ lang ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải trùng xà ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải kiếp tặc ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải gia bổng ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải hoành tử ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải chú thệ ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải thiên la ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải địa cương ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải đao binh ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải thủy hỏa ách…..”

                                          THIÊN CHÚA GIÁO

7 vị tinh quân này đã xuất hiện trong linh ảnh (vision) của Thánh Jean. Sách Khải huyền 4.5 nói rõ: “có 7 ngọn đèn thắp trước ngài, đó là 7 vị đại thiên thần của Chúa Trời”.

                                       CÁC MÔN PHONG THỦY

* Môn Lục Nhâm, vẽ sao Bắc Đẩu trên tinh bàn để xem thiên văn, địa lý.
Môn Bát trạch phong thủy đặt tên:  Môn Phong thủy Huyền không phi tinh:
 -Sinh Khí -Tham Lang                                  -Nhât Bạch Tham lang
 -
Ngũ quỉ -Liêm Trinh                                   -Ngũ Hoàng Liêm trinh
 -Phúc Đức hay Diên Niên- Vũ khúc            -Tứ Lục Vũ khúc
 -Lục Sát - Văn Khúc                                     -Lục Bạch Văn khúc
 -Họa Hại -Lộc Tồn                                        -Tam Bích Lộc tồn
 -Thiên Y- Cự Môn                                         -Nhị Hắc Cự Môn
 -Tuyệt Mạng- Phá Quân                              -Thất Xích Phá Quân
 -Phục Vị là sao Phụ-Bật                               -Bát Bạch-Tả phù, Cửu Tử-Hữu Bật
* Thước Lỗ Ban chuẩn:
1-Cung QUÝ NHÂN: NHẤT TÀI MỘC CUỘC. ( TỐT ).Tham lang tấn hoạnh tài.
2- Cung HIỂM HỌA: NHỊ BÌNH THỔ CUỘC. ( XẤU ).Cự môn hiếu phục thường.
3- Cung THIÊN TAI: TAM LY THỔ CUỘC. ( XẤU ). Lộc tồn nhân đa lãm.
 4- Cung THIÊN TÀI: TỨ NGHĨA THỦY CUỘC. ( TỐT ). Văn khúc chử vạn chương.
5- Cung NHÂN LỘC: NGŨ QUAN KIM CUỘC. ( TỐT ). Vũ khúc xuân lộc tinh.Phú quý tự an ninh.
6- Cung CÔ ĐỘC: LỤC CƯỚC HỎA CUỘC. ( XẤU ). Liêm trinh tửu sắc thanh.
7- Cung THIÊN TẶC: THẤT TAI HỎA CUỘC. ( XẤU ). Phá quân chủ tung hoành.
8- Cung TỂ TƯỚNG: BÁC BỜI THỔ CUỘC. ( TỐT ). Phụ đồng tể tướng tinh.
KÍCH CỠ CỦA THƯỚC LỔ-BAN: Chiều dài chính xác của thước Lổ-Ban này là 520 mm (= 0,52 m).-Được chia ra làm 8 cung LỚN : Theo thứ tự từ cung QUÝ NHÂN đến cung TỂ TƯỚNG như trên.Mỗi cung LỚN dài 65 mm.
-Mỗi cung lớn: Được chia ra làm 5 cung nhỏ như trên. Mỗi cung nhỏ dài 13 mm.

                                                  KẾT LUẬN:

7 vị Bắc đẩu cổ Phật (theo đạo Phật)-cũng là 7 vi tinh quân (theo Đạo giáo-và các pháp môn)-là các Đại thiên thần theo Thiên Chúa giáo.
Họ chính là Thượng cổ Thiên Thần do Thượng đế sinh ra từ khi khai càn khôn vũ trụ. Hội đồng 9 vị Bắc Đẩu là Đại tổng quản các Thiên thần; chủ giữ bản mệnh con người, muôn vật.
Về mặt hình thể vật chất: 9 vị Bắc đẩu hợp nhất, cũng được coi tượng trưng là Đức Vương Mẫu Phật; hay là Mẫu Vương Tiên-Mẫu Thượng Thiên-Chủ trì Hội đồng chư Phật, chủ trì đầu thai, nghiệp quả, tạo luân hồi, sinh ra thể xác khí chất tạo nên hình thể vũ trụ hữu hình; văn hóa Phương đông gọi là Cửu Thiên Huyền Nữ-cai quản Thượng Thiên, hay trong đạo Tứ phủ Việt Nam gọi là Mẫu Thượng Thiên. Đạo Cao Đài gọi là Diêu Trì Kim Mẫu, đạo Giáo Trung Hoa gọi là Giao Trì Kim mẫu. Chúng ta thống nhất gọi là Đức Vương Mẫu-hay là Mẫu Vương Tiên, Mẫu Phật. Cha-Mẹ là 2 phần của Thái Cực âm-dương. Các con tu luyện về trời phải vô cùng kính trọng Mẫu Vương vĩ đại đã ngàn đời nay tạo tác mọi mầm sống cho vũ trụ, cho muôn loài chúng sinh.
Tất cả nhân loại phải thấu hiểu sâu sắc điều này, mới gọi là hiểu về Chân Lý đúng đắn-Giác ngộ.

Chúng ta tôn thờ Cha-Thiên Phù như thế, là HỢP NHẤT TÍN NGƯỠNG-TÔN GIÁO NHÂN LOẠI, vạn pháp qui tôn, vạn phép qui thiện. Tất cả đều là một gốc sinh ra, chỉ có cách gọi khác nhau, các tôn giáo phân hóa thành khác nhau.
-Đại Thiên Thần-Đại Tinh quân-Đại Thánh-cũng chính là các Đức Cổ Phật vậy! Tu luyện để về Thiên Đường-đồng nghĩa về Niết Bàn. Trên Thiên Đình có Vua-đó là Thượng Đế. Nên gọi là Vua Cha. Có Mẫu Vương-Mẹ muôn loài. Thần-Thánh-Tiên-Phật cũng đều là con Cha Mẹ. Các giáo chủ trực tiếp là hóa thân của Thượng đế lâm phàm dạy Đạo.

                                              CÁCH KHẤN NIỆM:

-Ai đeo Thiên Phù, thì nên học thuộc bài thơ Kính Ơn Cha, để đọc trong những lúc tu luyện, gặp việc cần xin khấn, ngày lễ tết, sóc vọng…
            
Kính ơn Cha ( Thượng đế)

Trên đỉnh Trời cao chót vót!
Toà Bạch Ngọc Đài, Cha ngự Thiên Linh
Cha sinh muôn loài, Cha của muôn sinh
Hạnh phúc nào bằng Cha trao cho sự sống
Cha là  Trời mênh mông lồng lộng
Cha là dòng máu hồng chảy mãi trong tim
Cha là ánh sáng  ngọt ngào rất đỗi dịu êm
Đưa chúng con vào cuộc trường sinh bất tử
Cha là ngọn đèn muôn năm soi tỏ
Vạn kiếp chúng con đi như gió bên Người
Người là dòng sông nguyên khí sữa nuôi
Mật ngọt và đắng cay, Cha chở che nhẫn chịu
Võng Ngân Hà, Cha đan cho con, Mẹ địu
Trên vai Người lịch sử nối vạn triệu năm
Nụ hoa đời cho Hạ thế chỉ chăm
Công tưới ấy, Thiện Mỹ này Cha dạy
Trong Vũ trụ ngọn  Nguyên Đăng bỏng cháy
Gieo bình minh đến khắp thế gian
Tạo giàu sang, nâng đỡ kẻ cơ hàn
Nuôi văn minh, sửa sang đời lạc hậu
Cha truyền cho ngọn nguồn tranh đấu
Sức sống vươn lên chân chính của muôn loài
Cha chở che, đùm bọc thủa hoài thai
Gieo mầm sống cho vạn đời nhân thế
Công ơn ấy làm sao đo đếm xuể
Khi sinh linh vạn giới bởi tay Người!
Ôm trọn vòng tay, Người-Vũ trụ, Người ơi!
Con -hạt cát trong tay Cha vĩ đại
Con xin dâng lên Đức Cha hiền mãi mãi
Linh hồn con-giọt ngọc của Cha
Tâm hồn con là một bông hoa
Dâng hương ngát lên vườn Thượng giới
Ánh mắt con như vạn lời hướng tới
Dâng lên Cha lời hát ngọt ngào
Đây hồn con như khí thanh tao
Rửa hết bụi hầu bên Cha ngự
Bao vật phẩm của thế gian các thứ
Con dâng lành cung chúc Cha thương
Và Cha ơi, trên mọi nẻo đường
Con cầu mong Cha thường nhắc việc
Giáng Thiên linh cho tỏ tường các kiếp
Phù nhân gian, phù thiện phù sinh
Diệt ác gian trọc hết lọc thanh
Cho thêm sức an lành cuộc sống
Đức phủ trùm là Trời biển rộng
Thượng Đế Cao Minh con xin kính thương Người! 

-Cầu, Khấn xin việc gì đó, nhưng phải thật tâm trong sáng, chân thành, cấm cầu các việc ác, tranh tham danh lợi…
 -Đọc xong thì hướng về phương Bắc-hướng sao Bắc Đẩu-quì lạy 9 lạy: Quì, chống gối, cúi đầu, rập đầu xuống sát đất, hai tay đặt song song, úp xuống đất, để trước gối. Mỗi lần quì, ngẩng lên, lại đặt tay vào ngực, như lễ trên, rồi lại rập đầu.
                                          

                     CÁCH SỬ DỤNG THƯỢNG ĐẲNG LINH PHÙ:

1-Mang Thiên Phù, phải giữ lòng lành thiện trong mọi lúc, mọi việc.
2-Vào ngày có số 7, hoặc 9, hoặc vào ngày sinh nhật mình, để nhớ về Trời, ơn Thượng đế, chúng ta hãy hướng về phương Bắc, nhìn lên 7 ngôi sao Bắc Đẩu, khấn niệm điều thiện lành cho mình, gia đình và nhân loại.
3-Khi thiền định, hay luyện khí công chúng ta hình dung 7 sao Thiên Phù trùm lên, trùng với 7 sao bản thể luân xa của chúng ta; khi thiền, chúng ta quán tưởng bản thể mình bao trùm và trùng với 7 sao Bắc Đẩu, trục Hoả xà trùng trục Thiên Phù; tinh thần bành trướng ý thức ra toàn Vũ trụ; Đan điền cũng có thể cho trùng với 7 sao này.
-Nếu xuất được hồn vía, ý thức ra khỏi bản thể, chúng ta đi xuyên vào 7 sao Bắc Đẩu này, tâm thanh sáng, xả bỏ mọi trọc khí ám khí xung quanh bản xác thể hàng ngày, chắc chắn luyện như thế đã đắc thoát luân hồi thường chuyển.

4-Khi có bệnh tật, hình dung ốp Thiên Phù vào người, rồi hình dung có một dòng năng lượng vũ trụ màu sáng, chảy từ trên cao theo dây Từ khí xuống luân xa số 7 ở đầu, chảy dọc theo trục Thiên Phù, xuống đến Đan điền hoặc hình dung dẫn khí theo ý đến tất cả những kinh mạch, nới đau bệnh, niệm 7 vị Tinh quân Bắc đẩu cứu độ, chắc chắn bệnh sẽ bớt.
5-Khi gặp ma tà quỉ ám, việc khó, kẻ xấu ám hại, việc xấu quấy phá…quay về phương Bắc đẩu, niệm phép khấn Vua Cha Thượng đế, Mẫu Vương Tiên, cùng 7 vị Thất tinh Bắc đẩu quản số mệnh con người và muôn vật, xin các Đại cổ Thiên Thần này cứu độ, cứu chữa….Với tâm thiện, cấm cầu các việc ác. Nếu cầu việc ác, sự thể sẽ quay ngược quả lại mình.
 -Xưa kia và bây giờ, các thầy bà phù thuỷ, hay đồng cốt đều dùng kiếm Thất tinh để trừ tà, đóng cọc hình sao Bắc Đẩu để trấn yểm, phá yểm bùa bả, hoặc phá rớp tai nạn, hoặc dùng bộ Đạp cương tẩu để luyện phép phù thuỷ…
Nay chúng ta với tâm thế tốt, hãy niệm Thiên Phù trùm lên các sự trên để hoá giải, với lời khấn nguyện trong sáng, chân thành, tất được như ý.
6-Vào lúc giờ thứ 9 trong ngày, tức giờ Thân-ngồi xếp bằng, lạy 9 lạy, hướng về phương Tây, khấn Đấng Trung Phương Thiên Tôn cứu độ, chữa bệnh, giải hạn ách, tất được như ý. Hình dung và sẽ được một dải ánh sáng bạch kim chảy vào luân xa 4, hoặc 6. Khi niệm phép này rồi thiền ở Luân xa 6-tức sao 6, có thể tuyến tùng mở, con mắt thứ ba hay huệ nhãn sẽ mở, xuất hiện thần thông…Tất nhiên phải kiên trì, tập lâu, giữ lòng lành thiện.
7-Khi niệm Thiên Phù, tất cả mọi long thần, thổ địa, thành hoàng bản thổ bản cảnh, thần thánh tiên phật, đến quỷ ma đều kính trọng, tuân theo Phép Luật Thiên đình-phép luật cao nhất thuộc Chân Lý Tối thượng. Khi niệm vào người, rung động nguyên tử lượng của các tế bào sẽ tăng, nội năng tiến hoá, linh hồn bẩm thụ nguyên khí chất Thượng thanh nơi Bạch Ngọc cung và Ngọc Hư cung nơi Vua Cha và Mẫu Vương ngự, linh hồn đó sẽ được thanh thoát hơn, bệnh nạn tiêu trừ, nghiệp kiếp lược bỏ; phát tâm nguyện hồi về Thiên giới, tất được như ý sau khi bỏ xác trần.
8-Vào các ngày Xuân Phân, Thu Phân, Hạ Chí, Đông Chí, là ngày thông cung, muôn vật nhập trung cung, nếu niệm, thiền, ốp Thiên Phù vào người, luyện khí công, khai Thiên Nhãn, cũng được phép màu cứu độ.
9- Cho phép tự đúc, in Thiên Phù theo cách riêng, nhưng phải đúng hình Thiên Phù.
Người mang Thiên Phù không là tôn giáo, không cần thành môn phái. Tất cả mọi người, mọi quốc gia, dân tộc, tôn giáo đều có thể sử dụng như nhau, khi đã tôn vì một Đấng Sáng tạo Vũ trụ này.

………………

-Thờ Thượng đế, có Thiên phù, thì không cần làm lễ giải  sao giải hạn, cúng sao…như cũ nữa; vì như thế là có thường xuyên đầy đủ thờ cả Thiên đình, các sao, thần, thánh, tiên, phật đều chứng ứng. Thờ như trên cũng là thờ chính bản mệnh mình (sao bản mệnh trong phép tử vi-ai cũng rõ, nên rất lợi ích tâm linh, tâm đạo).
Không đọc chú, lạy như các tôn giáo trên: Chỉ đọc Kinh Kính ơn Cha, lạy 9 lạy, đọc chú:-Cha Thiên linh Đại linh linh, Mẹ Thiên linh Đại linh linh, Thầy Thiên linh đại linh linh, phù hộ…” là được. Và phải tu luyện Thiên Pháp để tiến hóa, mới giải được nghiệp quả, vãng sanh tịnh độ về sau.
-Quán tưởng nhập giáng Thiên Phù khi tập Thiên pháp, quán nhìn vào Thiên Phù để lấy năng lượng cộng hưởng của Vũ trụ-Thượng đế.

NGƯỜI ĐEO THIÊN PHÙ CẦN THỰC HIỆN ĐỦ 9 ĐIỀU SAU, MỚI MONG ĐƯỢC LINH NGHIỆM HƠN:

                              9 ĐIỀU KHÔNG PHẠM
         1-Không  bỏ: Tôn thờ Vua Cha Thượng đế.
            2-Không chiếm: Của cải, tài danh, hạnh phúc của người khác.
            3-Không tham: Danh lợi, vật dục tầm thường.
            4-Không nói:  Gian dối, xảo ngôn, ác ý, hồ đồ.
            5-Không quên:  Người nghèo khổ, hư dốt.
            6-Không gây:  Hận thù, chiến tranh, giết hại chúng sinh.
            7-Không ở: Bẩn thỉu và phá hại môi trường.
            8-Không nghiện: Các chất kích thích nặng.
            9- Không ngừng: Xây dựng Thiên đường Hạ giới - (Xã hội Cộng sản An lạc Đại đồng-Đại Thiện-Đại Mỹ-Đại Linh hàng vạn năm sắp tới)

*Ngoài ra, cần tu luyện Thiên Pháp đến khi thành thần thông, đạt Chính giác, siêu Giác ngộ, siêu thoát tại thế, rồi xây đời, đời đạo song tu.

                                        LỄ TẾ VÀ LỄ KÍNH
           ( Có thể làm hoặc không, tùy tâm; nếu lập thờ thì phải làm)
                           
*Một năm làm 4 lễ Tế Trời ( Thượng đế): Các ngày chuyển tiết,  sang mùa quan trọng (chuyển nguyên khí vũ trụ), gồm: Ngày Xuân Phân, Hạ Chí, Thu Phân, Đông Chí-phải làm lễ tế Vua Cha. Các ngày này, nguyên khí tụ lại Trung cung. Cúng đơn giản, lễ chay nếu có tùy tâm, thiền lấy năng lượng thông linh với Thiên đình.
*Một năm làm 3 lễ kính: Đọc Kinh và Thiền, cầu nguyện cho Nhân loại bình an, đại đồng. Có thể cúng lễ. Sau có thể làm Lễ lớn.
-Kính ơn Cha-Thượng đế vào ngày 9/1 âm lịch.
-Lễ kính ơn Thầy9/8 âm lịch.
- Lễ Kính ơn Mẹ -Ngày 9/12  âm lịch.
                          Phương Đông-phương Tây đều cùng làm lễ như trên.